Cố Chủ tịch nước Võ Chí Công là thân phụ tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng?

Cù Huy Hà Vũ

22-3-2023

Một nguyên tắc bất thành văn của Đảng cộng sản Việt Nam là lấy con cái các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước làm nguồn lãnh đạo kế tiếp, trên cơ sở niềm tin rằng con cái sẽ bảo vệ đến cùng thành quả chính trị của cha mẹ họ. Tầng lớp “lãnh đạo dự bị” này vì thế được dân gian gọi là “thái tử Đỏ” hay ”thái tử Đảng”, như một sự làm mới hay cập nhật hóa câu ca dao “Con vua thì lại làm vua/Con sãi ở chùa lại quét lá đa.”

Do đó, việc ông Võ Văn Thưởng, theo giới quan sát, cho đến giờ chưa để lại ấn tượng đặc biệt nào trong công tác mà lại được Quốc hội Việt Nam bầu làm Chủ tịch nước ngày 2/3 vừa qua, tất dẫn đến suy đoán, ông là một “thái tử Đảng” trong bối cảnh lý lịch của ông do Nhà nước Việt Nam công bố (1) không cho biết cha mẹ ông là ai, ngoài việc ghi quê quán của ông là “xã An Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long”. Điều bất ngờ là chính địa chỉ được coi là quê quán này của ông Thưởng lại hỗ trợ đáng kể suy đoán trên.

Chủ tich nước Võ Văn Thưởng đọc diễn văn nhậm chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ

“Quê quán” là gì

Theo Việt Nam Tự Điển, cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, do Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931, “quê” là “nơi cội rễ của dòng họ nhà mình”, đồng nhất với “quê hương”, “quê quán”. Để hiểu rõ hơn “quê quán” là gì, sẽ là cần thiết hiểu được “quán”.

Vẫn theo sách này, “quán” là “nhà rộng để hội họp hay để làm công việc”. Kết hợp lại, “quê quán” là “nơi có nhà hội họp của dòng họ của một người”. Nếu định nghĩa này được chấp nhận thì “quán” chính là “nhà thờ Họ” hay “nhà thờ Tổ”, ngôi nhà mà một dòng họ lập ra để thờ cúng tổ tiên của mình. Với cách hiểu như vậy thì “quê quán” là “nơi có nhà thờ Họ của dòng họ của một người”.

“Quán” còn có thể hiểu một cách đơn giản là “nơi chốn” (place trong tiếng Anh và tiếng Pháp) dựa trên định nghĩa “sinh quán” cũng của Việt Nam Tự Điển, theo đó “sinh quán” là “nơi mình sinh ra”.

Bất luận thế nào, “quê quán” là “nơi dòng họ của một người sinh sống lâu đời”. Nói cách khác, về thăm “quê quán” của ai đó tất gặp người trong dòng họ người ấy, không người này thì người khác!

Vậy, phải chăng “quê quán” theo pháp luật Việt Nam hiên tại cũng được hiểu như thế?

Mục “Chú thích” của Biểu mẫu giấy khai sinh TP/HT-1999-A.2 được ban hành kèm theo Quyết định số 1203-QĐ/TP-HT ngày 26 tháng 12 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn ghi “quê quán” như sau: “Ghi theo nơi sinh trưởng của cha đẻ; nếu không rõ cha đẻ là ai, thì ghi theo nơi sinh trưởng của mẹ đẻ; trong trường hợp không xác định được cha, mẹ đẻ, thì để trống”.

Thế nhưng, làm theo hướng dẫn này của Bộ Tư pháp thì rất có thể “quê quán” thay đổi chỉ sau một đời. Lấy gia đình tôi làm ví dụ. Bố tôi, Cù Huy Cận, sinh ra tại làng Ân Phú (nay là xã Ân Phú), huyện Hương Sơn (nay là huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh, là Trưởng Tộc (Họ) Cù Huy, một dòng họ sinh sống nơi đây ít nhất từ thế kỷ 15. Địa danh này cũng là nơi có nhà thờ họ Cù Huy (2). Về phần mình, tôi sinh ra tại Hà Nội. Con trai đầu của tôi sinh ra tại thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, “quê quán” của con tôi là Hà Nội, khác với “quê quán” của tôi là “Hà Tĩnh”! Điều này rõ ràng khác với quan niệm truyền thống về “quê quán”, và hơn thế nữa, vô cùng bất tiện với Nhà nước Việt Nam vốn coi trọng chủ nghĩa lý lịch dựa trên nguồn gốc của gia đình cá nhân có liên quan.

Hẳn nhận thấy sự bất cập của hướng dẫn trên nên tại Quyết định 01 ngày 29/3/2006, Bộ Tư pháp đã có hướng dẫn mới về xác định “quê quán” trong giấy khai sinh. Theo đó, “quê quán” được ghi theo quê quán của cha đẻ; nếu không rõ cha đẻ là ai thì ghi theo quê quán của mẹ đẻ; trong trường hợp không xác định được cha, mẹ đẻ thì để trống. Thông tư 01 ngày 2/6/2008 của Bộ Tư pháp cũng có hướng dẫn tương tự để xác định “quê quán”. Khoản 8 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014 đã chấp nhận hướng dẫn này của Bố Tư pháp khi quy định “Quê quán của cá nhân được xác định theo quê quán của cha hoặc mẹ theo thỏa thuận của cha, mẹ hoặc theo tập quán được ghi trong tờ khai khi đăng ký khai sinh.”

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất cho việc xác định “quê quán” là định nghĩa thế nào là “quê quán” thì không một văn bản pháp lý nào của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra. Thành thử, “quê quán” chỉ có thể được xác định theo định nghĩa truyền thống, là “nơi dòng họ của một người sinh sống lâu đời”.

Từ một bài báo Nhà nước

Ngày 3/3/2023, báo Tiền Phong đăng bài “Vĩnh Long tự hào về người con ưu tú” (3) do phóng viên của báo viết sau khi “đến ấp Phú An, xã An Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, quê hương của tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng.” Như trên đã đề cập, “quê quán” hay “quê hương” là “nơi dòng họ của một người sinh sống lâu đời”. Oái oăm thay, bài báo tuyệt nhiên không cung cấp bất cứ thông tin nào về cha mẹ của ông Thưởng, cũng không cho thấy tác giả đã tiếp xúc với ai đó trong dòng họ của ông Thưởng!

Sự phi lý này chỉ có thể dẫn đến kết luận rằng “ấp Phú An, xã An Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long” không phải là quê quán/quê hương của ông Thưởng cũng như cha của ông không sinh ra tại địa chỉ trên. Điều này đến lượt nó tăng độ khả tín cho thông tin về cha ông Thưởng mà tôi đã có được cách đây mười mấy năm, khi tôi còn ở trong nước.

Một người từng giữ trọng trách trong hệ thống chính trị Việt Nam đã cho tôi, Cù Huy Hà Vũ, biết rằng thân phụ Võ Văn Thưởng là Võ Chí Công. Vị này sinh tại làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam), là một yếu nhân của ĐCSVN và Nhà nước Việt Nam. Trong Chiến tranh Việt Nam, Võ Chí Công là phó bí thư trung ương Cục miền Nam của Đảng Lao động Việt Nam (ĐCSVN ngày nay), phó Chủ tịch Mặt trân dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau 1975, Ông là Phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp rồi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1987 – 1992), chức vụ tương đương Chủ tịch nước.

Thông tin về gia đình riêng của Võ Chí Công trên báo chí Việt Nam hỗ trợ giả thuyết ông là thân phụ tân Chủ tịch Việt Nam.

Tấm hình kỷ niệm bên gia đình của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công. Người mặc áo dài đen là bà Mễ, người vợ sau của ông Công? Nguồn: Phụ nữ Việt Nam

Võ Chí Công có hai người vợ. Vợ đầu là Phan Thị Nể (4), bà này có với ông 3 người con là Võ Thị Nghĩa, Võ Quốc Tấn và Võ Quốc Công. Bà Nể qua đời năm 1969 (5). Vợ thứ hai tên là Mễ. Bài viết “Chủ tịch Võ Chí Công với văn nghệ dân tộc” của Giáo sư Hoàng Chương (6) có đoạn sau đây:

“Sau nhiệm kỳ làm Chủ tịch Nước, đồng chí Võ Chí Công tiếp tục làm cố vấn Ban Chấp hành T.Ư Đảng. Với cương vị mới, ông vẫn quan tâm tới đời sống văn hóa nghệ thuật. Nhiều văn nghệ sỹ tuồng và bài chòi ở Liên khu 5 gặp khó khăn về đời sống cũng như việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân tộc, đã nhờ tôi đưa tới gặp ông để giãi bày nguyện vọng. Có lần tôi đưa NSND Lệ Thi tới gặp cố vấn Võ Chí Công. Trước khi trình bày nguyện vọng của mình, chị Lệ Thi hát nhiều đoạn tuồng và bài chòi cho cố vấn Võ Chí Công nghe. Ông tỏ ra thích thú và khuyên chị Lệ Thi hãy truyền nghề lại cho lớp trẻ. Khi nghe chị Lệ Thi nói về nỗi khó khăn trong cuộc sống của mình, lương không đủ sống, nhà cửa không có, ông xúc động nói: “Rất tiếc là tôi chẳng có tiền để giúp đỡ cho chị. Trong nhà có chiếc tủ đứng còn tốt, không có gì đựng, hay là chị mang về dùng tạm có được không?”. NSND Lệ Thi xúc động ứa nước mắt, nói: “Em vô cùng cảm ơn anh chị, nhưng làm sao có thể mang cái tủ này về tới Phan Thiết?”. Bà Mễ, vợ ông còn nói: nếu không mang về Nam được thì đem bán đi lấy tiền tiêu tạm. Thật chỉ có những con người liêm khiết và có tấm lòng cao cả, bao dung như vậy mới có những ứng xử đẹp đối với nghệ sỹ nghèo!”

Mễ (từ Hán Việt, nghĩa là gạo) là cái tên của nhiều vùng đất cổ ở miền Bắc (Mễ Trì, Mễ Sơn (Hà Nội), Mễ Sơn (Hải Dương), Cổ Mễ (Bắc Ninh), Mễ, Mễ Sở (Hưng Yên)…Do đó, khả năng nhiều bà Mễ là người miền Bắc. Nếu tin rằng Võ Văn Thưởng là con Võ Chí Công thì bà Mễ chính là mẹ ông. Trong trường hợp này, ngày sinh của ông Thưởng, 13/12/1970, cho thấy ông Công rất có thể thành thân với bà Mễ khoảng đầu năm 1970, sau khi ông từ Nam ra Hà Nội dự Hội nghị 18 của Trung ương Đảng khóa III họp vào tháng 1 cùng năm. Cũng như vậy, nếu đúng là ông Công lấy bà Mễ thì cuộc hôn nhân này là hoàn toàn hợp pháp bởi bà Nể, vợ đầu của ông Công, qua đời năm trước đó, 1969.

Ngoài ra, việc tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng kết thúc diễn văn nhậm chức (7) bằng thơ của Xuân Diệu, thi nhân có “cha người Đàng Ngoài” (Hà Tĩnh) và “mẹ người Đàng Trong” (Bình Định) (8), mà ông nói là mượn để “nói thay lòng mình”, càng củng cố giả thuyết ông là kết quả của cuộc hôn nhân giữa Võ Chí Công, một người Nam và bà Mễ, một người Bắc trong bối cảnh Chiến tranh Việt Nam.

Bất luận thế nào, Nhà nước Việt Nam cũng như bản thân tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cần sớm công bố ai là thân phụ và thân mẫu của ông. Bởi người dân Việt Nam có quyền được biết xuất xứ của người đại diện cao nhất của họ trong tư cách đứng đầu Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” mà Hiến pháp long trọng quy định!

Tác giả: Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ là một luật gia, học giả và nhà bất đồng chính kiến, cựu tù nhân chính trị Việt Nam, nguyên là cán bộ Bộ Ngoại giao Việt Nam trong 30 năm. Hiện ông sống tại California, Hoa Kỳ.

________

Chú thích

1. Tiểu sử đồng chí Võ Văn Thưởng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, 09/03/2023.

2. Nhà thờ họ Cù Huy-Niềm tự hào trong nền văn hóa đất Việt, Vietnammarch

3. Vĩnh Long tự hào về người con ưu tú, Tiền phong, 3/03/2023.

4. Vĩnh biệt một con người tài đức vẹn toàn, Hà Nội Mới.

5. “Võ Chí Công – người con ưu tú của đất nước, Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Nam, 27/06/2012.

6. Chủ tịch Võ Chí Công với văn nghệ dân tộc, Người đại biểu nhân dân, 12/08/2012

7. Toàn văn phát biểu nhậm chức của ủy viên Bộ chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tại kỳ họp bất thường lần thứ tư, Quốc Hội khóa XV, Cổng thông tin điện tử Quốc Hội nước CHXHCNVN, 02/03/2023.

8. Nhà thơ Xuân Diệu (tên thật là Ngô Xuân Diệu), bác ruột và là cha nuôi tôi, tác giả bài thơ “Cha Đàng Ngoài, Mẹ ở Đàng Trong”, sáng tác tháng 6/1960, khi Việt Nam còn bị chia cắt làm hai miền Bắc – Nam. Bài thơ có những câu: “Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khô rang/ Đói bao thuở, cơm chia phần từng bát/ Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát/ Bình Định lúa xanh ôm bóng tháp Chàm.”

Related posts