Bảo Nguyên
Quyết định của Bắc Kinh tạm dừng xuất khẩu urê sử dụng cho phương tiện sang Hàn Quốc làm dấy lên mối lo ngại nghiêm trọng về các hạn chế dài hạn trong nhập khẩu và khả năng xảy ra một “cuộc khủng hoảng urê” khác tại nước này.
Hàn Quốc, vốn phụ thuộc vào Trung Quốc về chuỗi cung ứng nhập khẩu, phải đối mặt với những lo ngại mới khi Trung Quốc bất ngờ tạm dừng thủ tục thông quan đối với việc xuất khẩu urê (urea) sử dụng cho phương tiện. Động thái này đã dẫn đến việc hoảng loạn tìm mua urê ở Hàn Quốc và đặt ra câu hỏi về vai trò của yếu tố chính trị trong quyết định này.
Vào ngày 30/11, Cục Hải quan Trung Quốc đột ngột đình chỉ việc xuất khẩu giải pháp urê dùng cho phương tiện cho các công ty lớn của Hàn Quốc. Quyết định này ảnh hưởng đến các loại dung dịch urê đã vượt qua đánh giá xuất khẩu, nhưng đã bị tạm dừng trong quá trình bốc xếp hàng, ảnh hưởng đến các công ty con tại Trung Quốc của các công ty Hàn Quốc.
Chính phủ Hàn Quốc thông qua nhiều kênh khác nhau khẳng định sự chậm trễ này xuất phát từ vấn đề nguồn cung trong nước ở Trung Quốc và không có động cơ chính trị. Mặc dù có nguồn cung urê trong nước sử dụng cho phương tiện đủ cho ba tháng, Hàn Quốc vẫn tỏ ra thận trọng. Những kinh nghiệm trong quá khứ, đặc biệt là tình trạng “thiếu hụt urê” năm 2021 do các hạn chế xuất khẩu tương tự từ Trung Quốc gây ra, làm dấy lên mối lo ngại về những tác động lâu dài tiềm ẩn và sự cần thiết phải có các biện pháp đối phó.
Urê sử dụng trong xe cộ, một yếu tố cần thiết để giảm lượng khí thải nitơ oxit trong xe chạy bằng diesel, là một sản phẩm công nghiệp quan trọng. Hàn Quốc, với khoảng 10 triệu xe diesel, trong đó có 2 triệu xe tải, phụ thuộc rất nhiều vào urê.
Ông Lý Nguyên Hoa (Li Yuanhua), một chuyên gia lịch sử Trung Quốc và cựu phó giáo sư tại Đại học Sư phạm Thủ đô Bắc Kinh, lại đưa ra một góc nhìn khác. Phát biểu với The Epoch Times, ông Lý cho rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có thể sử dụng việc kiểm soát tài nguyên như một công cụ chiến lược, ngụ ý rằng không thể loại bỏ yếu tố chính trị trong tình huống này. Ông lập luận rằng ĐCSTQ muốn nhắc nhở Hàn Quốc về sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc, bất chấp mối liên kết của Hàn Quốc với Mỹ và phương Tây.
Sự phụ thuộc dai dẳng của Hàn Quốc vào urê Trung Quốc
Bất chấp những gián đoạn trong quá khứ, sự phụ thuộc của Hàn Quốc vào Trung Quốc về urê sử dụng cho phương tiện vẫn ở mức cao, dẫn đến bất ổn thị trường và tác động xã hội rộng lớn hơn.
Các hạn chế xuất khẩu năm 2021 của Trung Quốc đã đột ngột gây ra tình trạng thiếu urê một cách đáng kể ở Hàn Quốc, ảnh hưởng xấu không chỉ đến lĩnh vực hậu cần mà còn cả các dịch vụ công thiết yếu như chữa cháy, hoạt động cứu thương, quản lý môi trường và thậm chí cả nông nghiệp, từ đó gây bất ổn cho nguồn cung sản phẩm nông nghiệp.
Từ tháng 1 đến tháng 9/2021, 97,6% urê công nghiệp – một con số đáng kinh ngạc – của Hàn Quốc được nhập khẩu từ Trung Quốc, với lượng tồn kho của các công ty chỉ đủ cho hai đến bốn tuần.
Sau “cuộc khủng hoảng urê” năm 2021, những nỗ lực nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc còn rất khiêm tốn. Số liệu của Cơ quan Hải quan Hàn Quốc tiết lộ, tuy tỷ trọng urê công nghiệp nhập khẩu từ Trung Quốc giảm xuống 71,7% vào năm 2022 nhưng lại tăng trở lại lên 91,8% trong 10 tháng đầu năm 2023. Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2023, Hàn Quốc đã nhập khẩu 196.000 tấn urê từ Trung Quốc, và Hàn Quốc được xếp hạng là nước nhập khẩu urê lớn thứ hai trên toàn cầu, sau Ấn Độ.
Để đối phó với tình trạng thiếu hụt năm 2021, các công ty Hàn Quốc đã mở rộng nguồn nhập khẩu urê sang các nước như Qatar và Việt Nam. Tuy nhiên, sức hấp dẫn của giá cả và chất lượng cạnh tranh của Trung Quốc đã khiến hàng nhập khẩu từ Trung Quốc quay trở lại.
Bộ Thương mại, Công nghiệp và Năng lượng Hàn Quốc thừa nhận những thách thức trong việc đa dạng hóa nguồn nhập khẩu, đặc biệt khi urê Trung Quốc rẻ hơn và có chất lượng cao hơn so với các nguồn thay thế ở Đông Nam Á. Đặc biệt, các công ty nhập khẩu nhỏ hơn gặp khó khăn trong việc đa dạng hóa do những cân nhắc về chi phí và hậu cần.
Trung Quốc, với tư cách là nước sản xuất và tiêu thụ urê lớn nhất thế giới, thường trải qua thời kỳ tiêu thụ thấp điểm trong quý IV. Tuy nhiên, năm 2023 chứng kiến sự gia tăng đáng chú ý của giá urê trong nước, dẫn đến một mô hình tiêu thụ urê không điển hình tại Trung Quốc. Ngày 17/11, các tập đoàn, công ty phân bón lớn của Trung Quốc nhấn mạnh ưu tiên bán hàng cho nội địa.
Ngoài ra, các báo cáo của ngành công nghiệp Trung Quốc trong tháng 11 cho thấy nỗ lực hạn chế xuất khẩu urê. Một phân tích ngành ngày 1/12 được công bố trên Mạng lưới phân bón Trung Quốc nhấn mạnh một thỏa thuận tự nguyện của các doanh nghiệp thương mại và dự trữ lớn nhằm hạn chế xuất khẩu urê năm 2024 ở mức 944.000 tấn. Hơn nữa, ngày càng có nhiều tin đồn về việc hạn chế xuất khẩu toàn diện kéo dài đến quý đầu tiên của năm 2024.
Một cuộc khủng hoảng urê khác?
Quyết định của ĐCSTQ tạm dừng xuất khẩu urê sử dụng cho phương tiện sang Hàn Quốc làm dấy lên mối lo ngại nghiêm trọng về các hạn chế dài hạn trong nhập khẩu và khả năng xảy ra một “cuộc khủng hoảng urê” khác. Nỗi sợ hãi này dẫn đến việc hoảng loạn tìm mua urê ở Hàn Quốc, với các trường hợp thiếu hụt hàng tồn kho và các biện pháp phân bổ tiết kiệm đã được báo cáo.
Ví dụ, EUROX của Lotte Fine Chemical, một công ty lớn trong thị trường urê sử dụng cho phương tiện của Hàn Quốc, đã giới hạn một đơn vị cho mỗi người mua trong 30 ngày trên cửa hàng trực tuyến chính thức của mình. Ngoài ra, Opinet, trang web của Công ty Dầu Hàn Quốc, báo cáo rằng 91 trạm xăng trên toàn quốc đã cạn kiệt nguồn cung urê sử dụng cho phương tiện.
Để đối phó với mối lo ngại ngày càng tăng, chính phủ Hàn Quốc, thông qua Bộ Kinh tế và Tài chính, đã quyết định tăng gấp đôi dự trữ urê công và đang xem xét các biện pháp hỗ trợ cho các công ty nhập khẩu từ các nguồn thay thế. Chính phủ cũng đang thảo luận về giới hạn mua hàng để ngăn chặn tình trạng thiếu hụt tạm thời.
Chính phủ Hàn Quốc đã bày tỏ quan ngại trước hành động của ĐCSTQ, nhấn mạnh tác động tiêu cực tiềm tàng đối với hợp tác trong chuỗi cung ứng. Nó ủng hộ việc kích hoạt các kênh đối thoại và chia sẻ thông tin kịp thời về sự gián đoạn nguồn cung giữa các ngành công nghiệp của cả hai nước.
Bất chấp những bài học từ “sự hỗn loạn urê” trước đó, phản ứng của Hàn Quốc trước sự phụ thuộc vào nhập khẩu urê của Trung Quốc không cho thấy nhiều thay đổi hai năm sau đó. Điều này đã dẫn đến sự chỉ trích của công chúng về những nỗ lực đa dạng hóa không hiệu quả của chính phủ và kêu gọi hành động nhanh chóng để đa dạng hóa chuỗi cung ứng nhập khẩu.
Truyền thông Hàn Quốc cũng lên tiếng về vấn đề này. Một bài bình luận trên tờ Korea Daily News chỉ trích các hạn chế xuất khẩu urê đơn phương của ĐCSTQ, nêu bật hậu quả là lòng tin vào mạng lưới cung ứng bị xói mòn.
Bài bình luận chỉ ra những tác động rộng lớn hơn đối với Hàn Quốc, vốn phụ thuộc vào Trung Quốc về các nguyên liệu thô quan trọng. Nó nhấn mạnh sự cần thiết đối với Trung Quốc trong việc tăng cường hệ thống thương mại của mình để trở nên dễ dự đoán và đáng tin cậy, trong bối cảnh Hàn Quốc đang nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng để đảm bảo an ninh kinh tế.
Tương tự, bài bình luận của Seoul Shinmun nhận xét về sự thiếu nhất quán của ĐCSTQ, lưu ý việc Bắc Kinh ủng hộ thương mại tự do trên toàn cầu trong khi lại hành động trái ngược với những nguyên tắc này. Bài bình luận kêu gọi Trung Quốc thông tin một cách minh bạch về tình hình urê, cảnh báo rằng việc không làm như vậy có thể bị chỉ trích vì vi phạm các nguyên tắc thương mại tự do.
Những lo ngại đối với chuỗi cung ứng
Sự phụ thuộc của Hàn Quốc vào Trung Quốc vượt ra ngoài lĩnh vực urê, bao gồm các lĩnh vực quan trọng như chất bán dẫn, pin và xe điện. Sự phụ thuộc này đã được đặc biệt chú ý khi Trung Quốc, trong bối cảnh căng thẳng leo thang với Mỹ, bắt đầu kiểm soát việc xuất khẩu các nguyên liệu quan trọng.
Từ đầu tháng 12, ĐCSTQ đã bắt đầu áp dụng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu than chì, một thành phần quan trọng trong sản xuất cực dương của pin xe điện. Điều này diễn ra sau những hạn chế trước đó đối với việc xuất khẩu gallium và germanium, thiết yếu trong sản xuất chất bán dẫn, một động thái bắt đầu có hiệu lực vào tháng 8. Những động thái này đã làm gia tăng lo ngại của Hàn Quốc về việc Trung Quốc có khả năng mở rộng các hạn chế xuất khẩu đối với các khoáng sản và nguyên vật liệu thô quan trọng khác.
Dữ liệu từ ông Kim Sungwon, thành viên Đảng Quyền lực Nhân dân cầm quyền của Hàn Quốc, cho thấy sự phụ thuộc mạnh mẽ vào Trung Quốc trong nhập khẩu thiết yếu. Tính đến tháng 10, trong số 393 mặt hàng nhập khẩu “phụ thuộc tuyệt đối” (mỗi mặt hàng có giá trị trên 10 triệu USD) với hơn 90% sự phụ thuộc vào các quốc gia cụ thể, có 216 mặt hàng (55%) có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Trong chuỗi cung ứng khoáng sản lõi pin, sự phụ thuộc của Hàn Quốc vào Trung Quốc đặc biệt rõ rệt. Nó bao gồm 93,3% phụ thuộc vào than chì tổng hợp, 82,3% vào lithium oxit và lithium hydroxit, 96,7% vào muối lithium của oxit mangan coban niken và 96,6% vào hydroxit mangan coban niken.
Trong nửa đầu năm nay, Trung Quốc chiếm 79,4% lượng kim loại đất hiếm nhập khẩu của Hàn Quốc được sử dụng trong chất bán dẫn, bao gồm yttrium và cesium. Tương tự, thị phần của Trung Quốc trong nam châm vĩnh cửu đất hiếm, rất quan trọng đối với động cơ xe điện, là 85,8%. Hơn nữa, đóng góp của Trung Quốc cho các đầu vào ngành bán dẫn rất đáng kể, với 35% cho tấm silicon, 62% cho hydro florua, 64% cho xenon và 43% cho krypton.
Ông Lý Nguyên Hoa, chuyên gia về Trung Quốc, coi sự cố urê là bài học quan trọng đối với Hàn Quốc, cho rằng hành động của ĐCSTQ đã vô tình đẩy Hàn Quốc theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào nước này. Ông tin rằng tình trạng này đang gây ra sự thay đổi trong nhận thức của những người trước đây lạc quan về ĐCSTQ, có khả năng dẫn đến sự thức tỉnh xã hội rộng rãi hơn ở Hàn Quốc.
Ông nhấn mạnh: “Chỉ bằng cách nhân thức ra một cách cơ bản về ĐCSTQ, chúng ta mới có thể điều chỉnh một cách cơ bản các chính sách thương mại và kinh tế để tránh bị ĐCSTQ kiểm soát”.
Sự cưỡng bức kinh tế của Bắc Kinh đối với Hàn Quốc, Nhật Bản
Theo một quan chức an ninh quốc gia hàng đầu của Tòa Bạch Ốc, sự cưỡng bức kinh tế của Bắc Kinh là chủ đề thường xuyên xuất hiện trong các cuộc trò chuyện giữa Mỹ và các đồng minh châu Á, như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Ông John Kirby, điều phối viên về truyền thông chiến lược của Hội đồng An ninh Quốc gia (Mỹ), nói với các phóng viên trong cuộc họp báo 7/12: “Tôi không biết quá nhiều cuộc trò chuyện mà chúng tôi đã có với các đối tác Hàn Quốc và Nhật Bản mà các hoạt động bắt nạt kinh tế của Trung Quốc không xuất hiện dưới một hình thức và cách thức nào đó”.
Ông Kirby đưa ra bình luận này để trả lời câu hỏi của NTD, cơ quan truyền thông liên kết của The Epoch Times, liên quan đến việc chính quyền Trung Quốc gây áp lực kinh tế và ngoại giao để ngăn chặn đoàn múa Shen Yun của Mỹ biểu diễn tại Hàn Quốc.
Khi cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Jake Sullivan tới Seoul, Hàn Quốc, để thảo luận ba bên với những người đồng cấp từ Hàn Quốc và Nhật Bản vào ngày 9/12, ông Kirby nói rằng ông “sẽ không ngạc nhiên” nếu hành động cưỡng bức kinh tế của Trung Quốc lại tiếp tục xuất hiện trong chương trình đối thoại.
Kể từ khi thành lập vào năm 2006 tại New York, Shen Yun (Thần Vận) đã phải hứng chịu hàng loạt chiến dịch phá hoại do Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) dàn dựng. Công ty được thành lập với mục đích giới thiệu 5.000 năm văn hóa Trung Hoa thông qua nghệ thuật nhảy múa và âm nhạc. Theo các nhà phân tích, nỗ lực can thiệp vào hoạt động của Shen Yun trong gần hai thập kỷ xuất phát từ nỗi lo sợ của Bắc Kinh trước việc mô tả truyền thống Trung Quốc của Shen Yun.
Một phát ngôn viên của Đại sứ quán Trung Quốc vào tháng 11 thừa nhận rằng họ đã “thông báo cho phía Hàn Quốc về lập trường của Trung Quốc chống lại biểu diễn Thần Vận” để không cho công ty tiếp cận được các rạp hát Hàn Quốc.
Trong những tuần gần đây, nhiều quan chức chính quyền Biden và các nhà lập pháp tại Quốc hội Mỹ đã bày tỏ lo ngại về sự cưỡng bức kinh tế đằng sau các hoạt động can thiệp như vậy.
Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 7/11 tuyên bố rằng Bắc Kinh “có quá khứ rất rõ ràng về việc sử dụng biện pháp cưỡng bức kinh tế và mặt khác ở nhiều quốc gia”, đồng thời lưu ý rằng chính quyền Mỹ sẽ tiếp tục đối phó vấn đề thông qua quan hệ đối tác chặt chẽ với các đồng minh Ấn Độ – Thái Bình Dương như Hàn Quốc và Nhật Bản.
Trong cuộc họp báo ở San Francisco trước hội nghị thượng đỉnh Mỹ – Trung, một quan chức cấp cao của chính quyền Biden đã mô tả “sự cưỡng bức kinh tế” là “rất tai hại”.
“Tôi nghĩ đó là một đặc điểm đáng lo ngại của ngoại giao Trung Quốc”, ông nói. “Và sẽ là quan trọng để các quốc gia thực hiện các bước tiếp theo để cố gắng hợp tác cùng nhau để tạo ra sự kiên cường lớn hơn…”.
Nhật Bản tách rời kinh tế Trung Quốc
Các hành vi cưỡng bức kinh tế của Trung Quốc đang khiến Nhật Bản dần tách rời Trung Quốc về kinh tế.
Honda Motor hôm thứ 7 (2/12) cho biết sẽ cắt giảm khoảng 900 nhân viên hợp đồng tại một liên doanh ở Trung Quốc do cắt giảm sản lượng.
Cùng ngày, Toyota Motor cũng xác nhận đã ngừng một số hoạt động tại Trung Quốc. Một phát ngôn viên cho biết hôm thứ 7 (2/12) rằng Toyota Motor Corp đã tạm dừng sản xuất trên một số dây chuyền sản xuất cũ tại một liên doanh ở Trung Quốc. Các bài báo trước đó cho biết công ty đã tạm dừng một phần sản xuất do doanh số bán hàng yếu.
Mitsubishi Motors của Nhật Bản ngày 24/10 thông báo sẽ ngừng sản xuất ô tô trong liên doanh với Công ty TNHH Tập đoàn ô tô Quảng Châu tại Trung Quốc và chuyển nhượng cổ phần cho đối tác Trung Quốc.
Trước đó, gã khổng lồ điều hòa không khí Daikin của Nhật Bản và gã khổng lồ công nghệ Sony đã rời Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, các công ty Nhật Bản lần lượt rời khỏi Trung Quốc. Các chuyên gia tin rằng khi căng thẳng địa chính trị gia tăng, mối quan hệ “lạnh lùng về chính trị nhưng nóng bỏng về kinh tế” giữa Nhật Bản và Trung Quốc sẽ thay đổi. Các chuỗi cung ứng quan trọng của Nhật Bản sẽ dần tách khỏi Trung Quốc, giảm thiểu rủi ro trong ngắn hạn và tách rời khỏi Trung Quốc về lâu dài.
Ông Li Shihui, Chủ tịch Viện Nhật Bản tại Đài Loan và là giáo sư tại Trường Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia Chengchi, nói với The Epoch Times: “Các quy định lao động cũng như chính sách hoặc hệ thống trong nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thiếu minh bạch nghiêm trọng, khiến các công ty Nhật Bản dễ bị ảnh hưởng bởi vấn đề chính trị và khiến họ gặp các vấn đề và khó khăn trong hoạt động”.
Bà Wang Xiuwen, chuyên gia tại Viện Quốc phòng và An ninh Đài Loan, đã chỉ ra một quy luật lịch sử quan trọng: “Khi các chính sách của chính phủ Nhật Bản xúc phạm lợi ích chính trị của ĐCSTQ, ĐCSTQ thường dùng đến việc khuấy động chủ nghĩa dân tộc ‘chống Nhật’ và nhắm mục tiêu vào các công ty Nhật Bản hay thường dân Nhật Bản ở Trung Quốc. Đã có một số bài học trong thập kỷ qua”.
Ông Li cũng nhấn mạnh rằng người Nhật nhận thấy ĐCSTQ đã không tuân thủ các quy định của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, đặc biệt là về quyền sở hữu trí tuệ. Về thương mại quốc tế, Nhật Bản tin rằng ĐCSTQ không phải là quốc gia tuân thủ luật lệ.
Năm nay, ĐCSTQ đã thắt chặt kiểm soát, giám sát các công ty nước ngoài và bắt giữ các nhà đầu tư nước ngoài cùng một số nhân viên của các công ty Nhật Bản tại Trung Quốc.
Bảo Nguyên tổng hợp