Nguồn: Stephen M. Walt, “The Two Biggest Global Trends Are at War,” Foreign Policy, 06/08/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Các nhà lãnh đạo thế giới sẽ phải học cách giải quyết những mâu thuẫn của trật tự thế giới mới.
Trong trường hợp khó xảy ra, là Donald Trump, Kamala Harris, hoặc các nhà lãnh đạo thế giới đầy tham vọng khác đến xin lời khuyên của tôi về chính sách đối ngoại, tôi rất sẵn lòng nói chuyện với họ về nhiều vấn đề. Đó là biến đổi khí hậu, cách đối phó với Trung Quốc, lý do tại sao chủ nghĩa bảo hộ là ngu ngốc, phải làm gì với Gaza, vai trò của các chuẩn mực, ý nghĩa thực sự của lý thuyết cân bằng mối đe dọa, và một loạt các chủ đề khác. Nhưng có lẽ tôi sẽ bắt đầu bằng cách thu hút sự chú ý của họ đến hai xu hướng cạnh tranh nhau trong nền chính trị thế giới, vốn đã bắt nguồn từ hàng thập kỷ, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ trước. Hai xu hướng này mâu thuẫn với nhau theo những cách quan trọng, việc không đánh giá đúng cách chúng tương tác với nhau đã khiến nhiều quốc gia đi chệch hướng.
Xu hướng đầu tiên là tầm hoạt động, độ chính xác và khả năng sát thương ngày càng tăng của vũ khí hiện đại. Khoảng một thế kỷ trước, sức mạnh không quân vẫn còn ở giai đoạn sơ khai, tên lửa và pháo binh còn thiếu chính xác và có tầm bắn hạn chế. Nếu muốn gây nhiều thiệt hại cho kẻ thù, người ta sẽ phải đánh bại lực lượng quân sự của kẻ thù và sau đó bao vây các thành phố của kẻ thù bằng một đội quân. Tuy nhiên, ngày nay, các quốc gia hùng mạnh đã quá thành thạo việc làm nổ tung mọi thứ, ngay cả khi mục tiêu cách xa hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dặm. Vũ khí hạt nhân và tên lửa xuyên lục địa là đỉnh cao của xu hướng này, nhưng đáng mừng là những vũ khí này chỉ được sử dụng để răn đe kể từ năm 1945. Nhưng những cải tiến ổn định của máy bay tầm xa, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, máy bay không người lái, và công nghệ dẫn đường chính xác hiện đã cho phép các chiến binh phá hủy mục tiêu cách đó hàng trăm dặm. Thậm chí một số cá nhân không thuộc nhà nước (ví dụ như phiến quân Houthi ở Yemen) cũng đang tham gia vào hoạt động này.
Với quyền kiểm soát trên không, các quốc gia hùng mạnh giờ đây có thể gây ra thiệt hại lớn cho quân đội đối phương hoặc dân thường. Những gì Mỹ đã làm khi bắt đầu Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, những gì Nga đang làm ở Ukraine, hay những gì Israel đang làm ở Gaza cho thấy khả năng triển khai sức mạnh hủy diệt đã tăng lên đáng kể theo thời gian. Người ta có thể thêm vào danh sách này việc sử dụng máy bay không người lái để tiêu diệt những kẻ bị tình nghi là khủng bố trong cái gọi là các cuộc tấn công theo dấu hiệu đặc trưng, hoặc các vụ ám sát các quan chức nước ngoài như Qassem Suleimani, người đứng đầu Lực lượng Quds tinh nhuệ của Iran. Cuộc tấn công của Israel nhằm vào Fuad Shukr, một quan chức cấp cao của Hezbollah, ở Lebanon tuần trước chỉ là ví dụ mới nhất. Đối với các quốc gia mạnh nhất thế giới, khả năng tiếp cận mục tiêu bằng vũ lực sát thương chưa bao giờ lớn hơn thế. Và các vũ khí mạng tinh vi có thể cho phép các quốc gia tấn công cơ sở hạ tầng quan trọng của đối thủ chỉ bằng một cú nhấp chuột, ngay cả khi mục tiêu ở bên kia thế giới. Tóm lại, đối với một số quốc gia, khả năng hủy diệt đã mang tính toàn cầu.
Xu hướng thứ hai lại khác hoàn toàn: sự gia tăng tầm quan trọng chính trị và sự bền bỉ của các hình thức bản sắc và lòng trung thành địa phương và đặc biệt là cảm giác thuộc về một quốc gia. Như tôi từng đề cập trước đây, “ý tưởng cho rằng con người hình thành các bộ lạc riêng biệt dựa trên ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, và sự tự nhận thức chung, và rằng các nhóm như vậy đã định hình lịch sử 500 năm qua theo những cách mà nhiều người vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của nó.” Sự phổ biến của ý thức dân tộc và niềm tin rằng những nhóm như vậy không nên bị cai trị bởi người khác là một trong những lý do chính khiến các đế chế đa sắc tộc như Hapsburg và Ottoman đã lần lượt sụp đổ vào năm 1918 và 1922; khiến các thuộc địa của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha và Bỉ giành được độc lập; và khiến Liên Xô và khối Hiệp ước Warsaw cuối cùng tan rã.
Một khi ý thức mạnh mẽ về bản sắc dân tộc đã bén rễ trong một khối dân – quá trình thường được các chính phủ khuyến khích, nhằm hình thành ý thức đoàn kết và lòng trung thành với nhà nước – thì các thành viên của khối dân đó sẽ sẵn sàng hy sinh tất cả vì lợi ích của “cộng đồng tưởng tượng.” Người dân miền Bắc Việt Nam đã chiến đấu chống Nhật Bản, Pháp và Mỹ trong 50 năm để giành độc lập và thống nhất đất nước. Những chiến binh thánh chiến (mujahideen) Afghanistan cuối cùng đã buộc Liên Xô phải rút quân khỏi đất nước họ, và những người kế nhiệm họ là Taliban cũng đã khiến Mỹ làm điều tương tự. Ngày nay, những người Ukraine bị áp đảo về quân số và vũ khí vẫn tiếp tục chống lại cuộc xâm lược của Nga, trong khi những nỗ lực của Israel nhằm tiêu diệt sự phản kháng và bản sắc của người Palestine dường như chỉ khiến họ trở nên mạnh mẽ hơn.
Kết quả là một điều nghịch lý: Các quốc gia hùng mạnh, sở hữu công nghệ tiên tiến ngày càng có những phương tiện hiệu quả để gây tổn hại cho người khác từ xa, tuy nhiên khả năng hủy diệt này không mang lại cho họ ảnh hưởng chính trị lâu dài hoặc tạo ra những thắng lợi chiến lược có ý nghĩa. Mỹ đã kiểm soát bầu trời Iraq từ năm 1992 đến năm 2010, và có thể điều động máy bay, tên lửa, và máy bay không người lái để tấn công đối thủ bất cứ khi nào họ muốn. Nhưng năng lực kỹ thuật ấn tượng đó đã không giúp lực lượng Mỹ tiêu diệt quân nổi dậy, làm giảm ảnh hưởng của lực lượng dân quân thân Iran, hoặc quyết định diễn biến chính trị của Iraq.
Hai xu hướng này – khả năng ngày càng tăng để phá hủy mọi thứ từ xa và sự bền bỉ của bản sắc địa phương – xung đột một phần là vì việc sử dụng vũ khí có xu hướng củng cố bản sắc dân tộc. Trong giai đoạn đầu, các nhà lý thuyết về sức mạnh không quân đã dự đoán rằng các cuộc oanh tạc từ trên không sẽ làm suy giảm tinh thần người dân và khiến đối thủ nhanh chóng đầu hàng, nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng việc thả bom xuống dân thường có nhiều khả năng thúc đẩy ý thức đoàn kết và tinh thần phản kháng mạnh mẽ hơn. Trên thực tế, việc gây ra cái chết và sự tàn phá lên những cộng đồng không có khả năng tự vệ là một “lò lửa” lý tưởng để tôi luyện ý thức về bản sắc chung giữa các nạn nhân. Phá hủy cơ sở hạ tầng của Ukraine bằng bom và tên lửa có thể mang lại một số giá trị quân sự, nhưng không còn cách nào tệ hơn để Tổng thống Nga Vladimir Putin thuyết phục người Ukraine về “sự thống nhất lịch sử” của họ với Nga. Bất kể cuộc chiến cuối cùng sẽ kết thúc như thế nào đi chăng nữa, ông ta cũng đã tạo ra rạn nứt giữa Ukraine và Nga, một rạn nứt có thể kéo dài hàng thập kỷ.
Tại sao tôi muốn nói với các nhà lãnh đạo quốc gia đầy tham vọng về hai xu hướng này? Bởi vì các nhà lãnh đạo của các quốc gia hùng mạnh có xu hướng cho rằng khả năng gây “sốc và kinh hoàng” khi làm nổ tung mọi thứ sẽ cho họ quyền ra lệnh cho những nhóm dân cư yếu hơn. Đó là một suy nghĩ hấp dẫn bởi thả bom hoặc bắn tên lửa và máy bay không người lái vào những đối thủ yếu hơn sẽ giảm thiểu rủi ro cho chính công dân của họ. Như nhà sử học Samuel Moyn đã lập luận, các nhà lãnh đạo thậm chí có thể thuyết phục bản thân rằng độ chính xác sẽ giúp họ tiêu diệt kẻ xấu và tránh được dân thường, từ đó khiến việc sử dụng vũ lực gây chết người trở nên vô hại và dễ dàng được chấp thuận hơn. Nếu bạn là lãnh đạo của một quốc gia hùng mạnh đang phải đối mặt với một số vấn đề chính sách đối ngoại rắc rối, và bạn có thể sử dụng sức mạnh không quân vào vấn đề này mà không gây nhiều rủi ro cho người dân của mình, thì “làm điều gì đó” sẽ trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều.
Thật không may, việc cho nổ tung mọi thứ (và đôi khi giết chết rất nhiều người vô tội) không giải quyết được các vấn đề chính trị cơ bản đã dẫn đến xung đột. Hãy nhìn vào cuộc tàn sát mà Israel đã gây ra ở Gaza trong 10 tháng qua. Không ai có thể đặt câu hỏi về sức mạnh hủy diệt của Israel – tất cả những gì bạn cần làm là xem các video về Gaza ngày nay – nhưng có ai thực sự tin rằng điều này sẽ khiến hàng triệu người Palestine ở Gaza, Bờ Tây, hoặc những nơi khác từ bỏ mong muốn tự cai trị của họ không? Tất nhiên, điều ngược lại cũng đúng – Hezbollah đang nắm trong tay khả năng tấn công Israel lớn hơn so với 20 năm trước, nhưng khả năng hủy diệt đó sẽ không cho phép họ ra lệnh hoặc giải quyết các vấn đề chính trị sâu xa đang thúc đẩy xung đột với Israel và có nguy cơ gây ra một cuộc chiến khu vực rộng lớn hơn.
Tôi không nói rằng sức mạnh không quân hiện đại là không có giá trị, hay thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu các quốc gia chỉ dựa vào ném bom rải thảm và các hình thức tấn công tầm xa thô sơ khác. Khi kết hợp với lực lượng mặt đất có năng lực, sức mạnh không quân có thể trở nên cực kỳ hiệu quả trong việc thúc đẩy các mục tiêu chính trị được lựa chọn kỹ lưỡng. Chẳng hạn, sức mạnh không quân của Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp đánh bật Nhà nước Hồi giáo khỏi vương quốc tồn tại ngắn ngủi của nó – để rồi chứng kiến lực lượng mặt đất của Iraq và Iran xuất hiện để tái chiếm và bình định khu vực.
Nhà lý luận quân sự Carl von Clausewitz đã đúng: Chiến tranh là sự tiếp nối của chính trị, và khả năng phá hủy đơn thuần thường không đủ để giúp người ta đạt được mục tiêu chính trị. Thành công trước hết phụ thuộc vào việc lựa chọn các mục tiêu thực tế, nhưng nó cũng phụ thuộc vào sự sẵn sàng giải quyết các nguyên nhân chính trị cơ bản và công nhận mong muốn tự trị của mỗi quốc gia. Bất cứ ai nghĩ rằng họ có thể ném bom để giành chiến thắng đều không có quyền điều hành một đất nước, và thế giới sẽ tốt đẹp hơn nếu có nhiều nhà lãnh đạo hiểu được điều đó.
Stephen M. Walt là chuyên gia bình luận của Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Harvard.