Huế vô cùng quyến rũ về nhiều mặt, bởi vì Huế là kinh đô cuối cùng của thời đại tự chủ. Huế còn giữ được phong độ, qua nếp sống, kiến trúc, văn hoá và ẩm thực. Huế không bị ngộp thở vì nhà cao tầng. Huế vẫn lác đác những nhà cổ trên đường phố ngoại ô, như lời chào của quá khứ đón ta về Huế. Đi sâu vào thành nội, ta gặp muôn vàn quyến rũ khác, như thể tất cả vàng son và uy quyền của một thời còn đọng lại trong không gian, trong cỏ cây, trong sự đài các của cô gái Huế, của các món ăn Huế, trong cách trang trí Huế, từ vườn rau, cây kiểng, cái gì cũng nhuốm chất hoàng gia, sang trọng, lịch lãm.
Về cái chết của vua Minh Mạng, tác giả Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse) cuốn sách nổi tiếng nhất của Pháp về thời kỳ truyền giáo, linh mục Louvet viết:
“Vài tuần sau đó, kẻ tàn sát cũng lên hầu toà án Thượng Đế: Ngày 20 tháng Giêng năm 1841, Minh Mạng bị ngã ngựa, chết bất thình lình và đạo Thiên chúa mà y quyết tâm tận diệt vẫn sống, sống mạnh mẽ hơn, qua 10 năm chiến đấu, tự hào với hàng ngàn linh mục và hàng trăm người tử tội. Vì tự mình làm kẻ tàn sát đạo, tên bạo chúa đã bị thần dân của y kinh tởm và có biệt hiệu là bạo chúa Néron Việt Nam. Thay vì lùi, đạo Chúa đã tăng trưởng trong cuộc tranh đấu bền bỉ và đã chiến thắng vinh quang. Kẻ nào không tin hãy nhìn thống kê sau đây: Năm 1830, có một Khâm sứ Giáo Hoàng [Pháp] tám giáo sĩ [Pháp] hai mươi linh mục bản xứ và sáu mươi ngàn giáo dân. Năm 1841, một Khâm sứ Giáo Hoàng, bẩy giáo sĩ, ba mươi linh mục bản xứ và bẩy mươi lăm ngàn giáo dân”(Louis-Eugène Louvet, Đạo Giáo ở nước Nam (La Cochinchine Religieuse),1885, tập II, t. 115).
Không chỉ mình vua Minh Mạng có biệt hiệu Néron Việt Nam, cả chúa Nguyễn Phước Tần thời trước cũng “được” các giáo sĩ gọi như thế.
Khi xe leo lên đèo Hải Vân để về Huế, trời mưa tầm tã, tôi đã nhìn thấy vua Minh Mạng sừng sững đứng trên đỉnh núi, ở nóc đồn rêu phong, lệnh cho quân sĩ giữ vững Hải Vân Quan, chặn không cho liên quân Pháp-Y Pha Nho tiến lên chiếm Huế.
Minh Mạng (1820-1841) là vị vua lớn của triều Nguyễn, đã nhìn thấy hiểm hoạ ngoại xâm bắt nguồn từ các giáo sĩ người Pháp: đặc biệt từ khi Alexandre de Rhodes vận động Giáo Hoàng cho giáo sĩ Pháp độc quyền cai quản địa phận Việt Nam, các giáo sĩ Pháp luôn luôn tìm cách dẫn đường cho thực dân Pháp.
Vì thế, vua Minh Mạng cấm đạo, nên ông đã được các giáo sĩ “đặc biệt quan tâm”.
Nhưng linh mục Louvet chưa phải là người đầu tiên nguyền rủa Minh Mạng.
Người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã buộc tội và mạ lỵ Minh Mạng nặng nề, vô cố nhất là học giả Trương Vĩnh Ký trong cuốn Giáo trình Lịch sử An Nam (Cours d’ Histoire Annamite) (Saigon Imprimerie du Gouvernement, 1875, bản điện tử). Đến năm 1897, ông lại “xác định” thêm rằng Olivier de Puymanel và Le Brun, hai người lính Pháp vô học đã “xây” thành Gia Định bằng câu: “Vua dạy [bảo] ông Olivier, ông Le Brun coi xây thành Gia Định”, mà không đưa ra bằng chứng nào.
Khi viết sử về giai đoạn Pháp thuộc, Trương Vĩnh Ký có giọng điệu thực dân hơn cả thực dân, ông dùng chữ “trừng trị” để chỉ việc Pháp đánh nước ta, ông hồ hỡi khi Pháp thắng trận. Những đoạn mạt sát Minh Mạng, đôi chỗ trở thành “phản quốc”, ông không ngừng buộc tội vua, bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt:
1- Minh Mạng giết Nguyễn Văn Thiềng [Thành] vì Thiềng đã khuyên Gia Long nên để dòng chính (tức là con trai Hoàng tử Cảnh) kế vị, nên sau này Thiềng bị Minh Mạng thù.
[Thực ra Nguyễn Văn Thành có con trai làm thơ “phản kháng”, đại ý: ta bỏ triều này dựng triều khác hay hơn, mới đầu vua Gia Long biết nhưng lờ đi; ba năm sau, bị một số quần thần ghét, tố cáo, thêm thắt, vua Gia Long không bênh còn luận tội, nên ông đã tự tử chết năm 1817, dưới thời Gia Long].
2- Ngôi báu mà Minh Mạng thừa hưởng của cha là nhờ công ơn của một số “sĩ quan” Pháp, có người đã hy sinh đến tính mệnh [Ai?]. Vậy mà sau này Minh Mạng cùng bọn quần thần bội bạc đã đối xử tồi tệ với các “sĩ quan” đã giúp Gia Long dựng nước, cố tình kéo Gia Long ra khỏi ảnh hưởng Pháp. Vì thế, trong suốt thời kỳ đối đầu giữa chế độ Cộng hoà và chế độ Đệ nhất đế chính [ở Pháp] không có mối liên lạc nào giữa Annam và Pháp, đó là lỗi Minh Mạng.
[Hai người theo Gia Long từ đầu và còn ở lại trong triều đến cuối là Vannier và Chaigneau, Minh Mạng không đuổi ai cả, còn ban chức tước, phẩm vật trước khi họ về Pháp].
3- Sau khi lên ngôi, trong thời gian đầu, Minh Mạng dùng các giáo sĩ vào việc dịch sách, xong, thả họ sang Ai Lao (Lào) cho chết vì bệnh sốt rét rừng, để âm thầm thanh toán tất cả những người ngoại quốc này, nhưng các giáo sĩ đã can trì tranh đấu.
[Không hề thấy tên một giáo sĩ Pháp nào bị chết như vậy].
Trương Vĩnh Ký viết nguyên văn:
– “Minh Mạng, dùng dụ để thoả mãn mức độ nóng nẩy kinh hồn và đầy hận thù, đạt tới sự độc ác vì mê đắm hay vì lòng ghen tuông mù quáng. Tham vọng thống trị của ông ta vô độ: chính trị của ông ta lạnh lùng, bất chính, tàn nhẫn” (trích dịch bản điện tử).
4- “Minh Mạng lên ngôi, bằng cách tiếm vị của cháu, [con trai hoàng tử Cảnh], sợ một ngày nào đó nó có thể tranh ngôi của mình (…). Nghe đồn ông ta tư thông với vợ goá của Hoàng Tử Cảnh đến khi bà này có thai, bèn kết án loạn luân rồi sai giết cả mẹ lẫn hai con của hoàng tử Cảnh để phi tang.(trích dịch bản điện tử)
[Hoàng tử Cảnh mất năm 1801, 22 tuổi, vì bệnh đậu mùa, có hai con trai là Mỹ Đường và Mỹ Thùy. Năm 1824, Tống Thị Quyên, vợ goá hoàng tử Cảnh tư thông với Mỹ Đường, bị Lê Văn Duyệt biết, tâu vua. Tống Thị phải tội: [Lê Văn Duyệt] dìm nước cho chết. Mỹ Đường tội nặng bị giáng xuống hàng thứ nhân, mất năm 1848, đời Tự Đức. Mỹ Thùy bị bệnh chết năm 1826, không có con. Các con của Mỹ Đường được giữ Tôn Thất, Lệ Chung trông nom việc thờ phụng dòng Hoàng Tử Cảnh. Những việc này ghi rõ trong Thực Lục và Liệt Truyện].
Trương Vĩnh Ký viết tiếp:
“Sau tội ác mà vô liêm sỉ và đạo đức giả đen tối nhất pha trộn với sự hiểm ác sâu sắc nhất cùng nhau cạnh tranh như thế, ta còn ngạc nhiện làm gì trước thái độ của ông ta đối với các sĩ quan Pháp và các giáo sĩ? Không, dĩ nhiên là không.
Minh Mạng, bẩm sinh tàn ác, lạnh lùng, đen tối, gian trá, từ nay có thể làm tất cả mà chắc chắn là không bao giờ thấy quá đáng.” (trích dịch bản điện tử)
Ở đầu sách, Trương Vĩnh Ký viết một đoạn song ngữ Pháp-Việt, xin trích câu tiếng Việt:
“Ở các trò trai, ta xin kiếng sách này cho các trò, vì làm nó ra là làm cho các trò coi. Dùng tiếng Pha-Lang-Sa là tiếng đã rộng mà lại hay mà chép truyện đất nước ta ra cho anh em coi cho quen thuộc tiếng ấy… [Ta tặng sách này cho nam học sinh. Khi viết ta muốn anh em đọc quen với tiếng Pháp là thứ tiếng giầu mà hay, qua chuyện lịch sử nước ta…]
Lối viết sử của học giả Trương Vĩnh Ký cho học trò học về vua Minh Mạng là như thế. Trương Vĩnh Ký còn xác nhận rằng nước ta “có tội” trước nên Pháp mới “trừng trị”. Như lời nhiều sử gia thuộc điạ, cuốn lịch sử đầu tiên họ được đọc về Việt Nam là cuốn lịch sử của Trương Vĩnh Ký, cho nên ông chính là kẻ dẫn đường.
Mười năm sau, Louvet, 1885, cùng luận điệu này, đi sâu và đi xa hơn, trở thành cuốn sách tiêu biểu, sau đó các sử gia thi nhau chép lại.
Nguồn cội sự bài trừ Minh Mạng từ đâu ra? Hẳn là từ việc Minh Mạng cấm đạo và Trương Vĩnh Ký được các giáo sĩ nuôi dạy ở chủng viện Pinang từ nhỏ. Nhưng việc cấm đạo ở nước ta, không đơn giản, có một quá trình dài từ thời các chúa Nguyễn, lúc gắt gao, lúc nương tay, tuỳ theo tình trạng nội trị và ngoại giao, có khi bởi chính các giáo sĩ đã dìu dắt giáo dân chống lại triều đình.
Sau khi lên ngôi, Gia Long giữ khoảng cách với đạo Gia Tô, ông không thích người dân mê muội vì đạo. Năm 1804, Gia Long ra chỉ dụ đầu tiên gồm bốn điểm chính: 1- Cấm xây thêm chùa. 2- Sửa sang chùa chiền phải xin phép. 3- Cấm xây thêm đền thờ thánh, thần. 4- Đạo của người Bồ Đào Nha (tức đạo Gia-Tô) là một lý thuyết ngoại lai, đã lỡ truyền vào và dân ta nhiều người theo, nay cũng cấm không cho xây thêm nhà thờ, và nếu muốn sửa nhà thờ cũng phải xin phép.
Vì chỉ dụ này, mà Louvet đã viết lời xúc phạm Gia Long, cho rằng Gia Long đã “vô ơn bội ước” với Bá Đa Lộc và nước Pháp là “cha đẻ ra vương quốc của ông”.
Khi Minh Mạng lên ngôi, những năm đầu chưa có quyết định về đạo Gia-Tô, nhưng vua cũng không muốn đạo này bành trướng, nên không cho phép giáo sĩ vào thêm; tuy vậy giáo sĩ vẫn vào lậu. Tháng 5/1821, Chaigneau từ Pháp về, cho 4 giáo sĩ: Olivier, Gélan, Taberd, Gagelin trốn vào. Minh Mạng được thông báo, biết nhưng lờ đi, không hỏi tội.
Để giới hạn việc giảng đạo, vua ra lệnh cho các giáo sĩ phải về kinh dịch sách.
Năm 1825, hai giáo sĩ Jaccard và Régereau lại vào lậu. Jaccard trốn ra Bắc. Tháng 1/1825 Régereau đi tầu Thétis vào Đà Nẵng, bị tố cáo, bị truy nã, trốn vào Nam, nhưng cũng phải đi Singapore, hai năm sau mới vào lại miền Bắc.
Vụ Régereau khiến vua Minh Mạng nổi giận.
Ta nên biết: vua Minh Mạng nghiêm ngặt và kỷ luật hơn vua Gia Long nhiều. Quần thần rất sợ, đến nỗi Chaigneau khi ở Pháp về với chức Lãnh sự, lãnh lương của chính phủ Pháp mà nín thinh, không dám tâu. Vua hỏi: “Ngươi lại muốn về [trở về nước VN] sao? Đáp: “Thần chịu ơn dầy của nước, không biết lấy gì báo đáp. Nay tuổi già, xin làm tôi trọn đời”. (TL, II, t. 131). Diard, nhà vạn vật học đi cùng Chaigneau, viết thư về Pháp tố cáo sự khúm múm của Chaigneau trước vua Minh Mạng, nên không làm được nhiệm vụ một Lãnh sự. Chaigneau bị chính phủ Pháp viết thư khiển trách nặng nề nhiều lần. Đó là lý do chính khiến Chaigneau phải trở về Pháp chứ không phải Minh Mạng đuổi.
Tháng 2/1825, vua Minh Mạng ra chỉ dụ cho trấn thủ các hải cảng phải tuyệt đối khám xét, không để cho một giáo sĩ nào lọt vào. Tuy vậy từ 1825 đến 1830 vẫn có 6 giáo sĩ vào lọt: Noblet, Bringole, Cuenot, Marchand, Mialon và Viale. Năm 1827, Giám mục Taberd trở thành Khâm sai Giáo Hoàng thay thế Giám mục Labartette qua đời năm 1822.
Tháng 4/1833, Lê Duy Lương, nhân danh con cháu nhà Lê, khởi loạn ở Bắc, có giáo sĩ trợ giúp với chủ trương lật đổ triều Nguyễn mở triều đại nhà Lê mới, theo đạo Gia Tô.
Tháng 5/1833, Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, khởi loạn trong Nam, cũng với sự hỗ trợ của nhóm giáo sĩ, trong đó có Marchand và Taberd, muốn lật đổ triều Nguyễn, lập một “nước” ở Gia Định, theo đạo Gia Tô. Giáo sĩ Marchand tức Cố Du ở chung với loạn quân.
Vì thế, vua Minh Mạng mới ra chỉ dụ cấm đạo đầu tiên, năm 1833, 13 năm sau khi vua lên ngôi, lời lẽ đại ý: Vì dân chúng nghe lời dụ dỗ, theo thứ đạo ngoại lai, khinh thường đức Phật, không thờ cúng tổ tiên; nay ta quyết định: Dân ngu thì phải giáo dục cho chúng hiểu. Từ quan trở xuống, ai biết sợ uy quyền [triều đình] thì nên bỏ đạo. [Thày tu] bước qua thánh giá sẽ tha. Nhà thờ sẽ bị huỷ. Người nào bất tuân vẫn tiếp tục truyền đạo [chỉ các thầy tu người Việt] sẽ bị nghiêm trị [xử tử].
Minh Mạng cực nghiêm, ra dụ là áp dụng chứ không đùa như Chúa Thượng Nguyễn Phước Lan đã bao dung Alexandre de Rhodes, để ông ta vác đầu lâu André Lý đi hơn ba năm về Roma xin giáo hoàng trừng trị nước Nam (Xem bài Alexandre de Rhodes).
Trong chỉ dụ trên đây, Minh Mạng không nói gì đến giáo sĩ Pháp, tuy vậy, trên thực tế, giáo sĩ Pháp rất sợ, họ chạy sang Lào, Xiêm, để tránh bị bắt về Kinh dịch sách hoặc bị quản thúc tại giáo phận của mình.
Giáo sĩ Gagelin bị bắt vì tội đã trốn khỏi địa hạt bị quản thúc, đi khắp nơi giảng đạo (Louvet nói rằng ông ra đầu thú, việc này khó tin, bởi nếu ra đầu thú thì không thể bị xử tử, vì các ông Jaccard và Odorico cũng bị bắt, chỉ bị đuổi sang Xiêm, nhưng rồi ít lâu sau, tình hình dễ thở hơn, họ lại tìm cách trở về VN). Gagelin bị xử giảo (thắt cổ) ngày 17/10/1833. Giám mục Taberd, Khâm Sai Giáo hoàng, sợ quá, chạy sang Xiêm.
Người thứ hai là Cố Du tức cha Marchand, bị bắt trong sào huyệt cuối cùng của loạn quân Lê Văn Khôi, bị xử lăng trì (chặt chân tay cho chết dần) ngày 30/11/1835 cùng với 5 người khác. Tội lăng trì đã bỏ, nhưng vua Minh Mạng hoặc vì tức giận (đánh ba năm mới dẹp xong loạn Khôi) hoặc vì muốn làm gương, nên đã áp dụng hình thức nặng nề nhất của án tử hình.
Tuy vậy đạo Gia-Tô vẫn tiếp tục bành trướng. 1836, bẩy giáo sĩ: Candalh, Jeanne, Lefèbvre, Viale, Miche, Duclos, Chamaison vào lậu, lập hai trường dạy đạo, một ở Bắc, một ở Nam, hoạt động công khai như không có dụ cấm đạo.
1838, tình hình nước Tầu đã găng lắm, lo ngại quân Tây phương sẽ lấn đến VN, vua Minh Mạng áp dụng chính sách cấm đạo triệt để hơn nữa: có hai giáo sĩ bị tử hình là Linh mục Jaccard ở Cam Lộ ngày 21/9/1838 và Giám mục Borie bị chém đầu tại Đồng Hới ngày 24/11/1838.
Đó là những lý do tại sao dưới triều Minh Mạng có tới bốn giáo sĩ người Pháp bị tử hình.
Đến đời vua Thiệu Trị (1840-1847) giáo sĩ bị bắt vẫn kết án tử hình, nhưng vua Thiệu Trị không xử tử ai cả, đợi có tầu ngoại quốc đến, gửi đi, hoặc sai quan dẫn độ sang Singapore. Nhưng chính sách khoan hồng và mở cửa của vua Thiệu Trị không làm cho người Pháp thực dân như đô đốc Cécille, Tổng tư lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương hiểu, y vẫn tiếp tục ngoan cố, vẫn tìm cớ “giải thoát” giáo sĩ để đánh nước ta.
Biến cố vịnh Đà Nẵng 1847 đã chứng tỏ điều đó. Việc này đã chấm dứt tất cả những mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam.
Mười năm sau, 1857, liên quân Pháp Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, lần này là vì sự vận động của Giám Mục Pellerin với Napoléon III và Giáo Hoàng Pie IX.
Do đó có thể nói, chính sách xâm lược nước ta, là sự kết hợp giữa chính quyền thực dân và giáo hội La Mã, bắt đầu từ thời Alexandre de Rhodes.
Lên ngôi, Minh Mạng cải tổ toàn diện nền giáo dục, sửa sang việc hành chính, nội trị và binh bị, lo bảo vệ đất nước, đề phòng ngoại xâm. Riêng việc thi cử: Thời Gia Long, 6 năm mới có kỳ thi, Minh Mạng đổi lại 3 năm một lần, đặt thi tiến sĩ, mở thêm các trường thi trên khắp đất nước. Số người đỗ đạt ra làm quan tăng lên gấp bội. Ông sửa sang hành chính, đặt ra tỉnh, huyện.
Minh Mạng còn là nhà kiến trúc, xây 23 thành trì: Hưng Hoá (1821); Sơn Tây (1822); Quảng Bình, Ninh Bình (1823); Bắc Ninh, Cao Bằng, Định Tường (1824); Quảng Yên (1827); Nghệ An (1831); Hưng Yên (1832); Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Nam (1833); A Giang (Châu Đốc), Hà Tiên, Lạng Sơn (1834); Hà Nội (1835); Gia Định (Sàigòn, 1836), Phú Yên, Bình Thuận, Quảng Trị (1837), Biên Hoà (1838). Thiệu Trị xây thêm thành Tuyên Quang (1844).
Nếu Minh Mạng không chết vì ngã ngựa, chưa chắc quân Tây Dương đã dám dụng đến nước ta. Bởi tất cả những thành trì kiên cố này đã ngăn chặn quân Pháp, gây khó khăn, nên họ không thể nhanh chóng mà chiếm được. Phải mất 20 năm.
Nhưng những điều mà học sinh được học về Minh Mạng, đã bị lọc qua lăng kính sử gia thuộc địa, kể cả những người như Trần Trọng Kim và Phan Khoang cũng đều nhất loạt cho rằng: vì Minh Mạng giết đạo và bế quan toả cảng nên nước ta mới lạc hậu và sau này bị Pháp xâm chiếm, là hoàn toàn sai.
Trái với Gia Long, chủ trương bế quan toả cảng thực sự, vì ông sợ Anh, Pháp xâm chiếm, Minh Mạng không hề bế quan toả cảng. Ông gửi nhiều phái bộ đi nước ngoài với mục đích: đo lường sự đe dọa của Tây phương, học hỏi các tiến bộ khoa học và khảo sát tổ chức thương nghiệp của họ để có thể giao tiếp.
Từ năm 1825 (một năm sau khi Anh làm chủ bán đảo này) vua Minh Mạng đã sai phái đoàn sang Singapore để thương lượng độc quyền buôn bán, được người Tây phương ghi nhận:
“Sự buôn bán lớn giữa Singapour và xứ Đàng Trong Việt Nam là do những thần dân người Hoa của nhà vua Việt Nam tiến hành. Tuy nhiên, năm 1825, vua đã gửi hai đội vũ trang và một đoàn quan lại tới Singapour để mua hàng len và hàng thủy tinh. Sau này mới phát hiện là những viên quan này cũng tới để về tường trình những điều kiện và quan điểm của những thuộc địa châu Âu ở Eo Malacca. (…) Cuộc viếng thăm của những chuyến thuyền buôn đã kéo theo độc quyền nhà vua về buôn bán với Singapour”.(Wong Lin Ken, 1960, t. 155-56, theo chú thích số 14 của Phan Huy Lê, t. 129, Hải Trình Chí Lược).
Ngoài việc gửi sứ sang Tầu dò xét nhà Thanh, năm 1830, Minh Mạng còn gửi Lý Văn Phức (người Tầu) đi Bengale, xem tình hình người Anh ở Ấn Độ. Khi về ông viết ba tác phẩm Tây hành kiến văn kỷ lược, Tây hành thi lược, Tây hành thi kỷ (đều chưa dịch). Năm 1831, vua lại gửi Phan Thanh Giản và Hà Tôn Quyền đi Batavia (Jakarta), dò xét người Anh ở Tân Gia Ba (Singapore) và người Hòa Lan ở Indonesia. Năm 1832-1833, vua gửi phái đoàn Phan Huy Chú đi Singapore và Batavia, trở về ông viết Hải Trình Chí Lược (Phan Huy Lê, Tạ Trọng Hiệp, Claudine Salmon dịch). Qua tác phẩm này, ta thấy rõ nhiệm vụ học hỏi những cơ sở của Tây Phương và dò thám những ý đồ và mục tiêu của họ.
Tháng 11/1839, Minh Mạng cho chế tạo một thuyền lớn chạy bằng máy hơi nước, tốn 11.000 quan tiền, các quan có ý tiếc, vua bảo: ta muốn thợ của ta học hỏi những kỹ thuật mới về máy móc tân tiến, tốn bao nhiêu cũng phải trả.
Riêng trong tháng 11/1839 [là năm bùng nổ chiến tranh nha phiến bên Tầu], Minh Mạng gửi một lúc nhiều phái đoàn ra nước ngoài: Đào Trí Phú, Trần Tú Dĩnh đi Batavia (Jakarta),Cao Hữu Tán đi Tambelan (đảo Indonésia), Nguyễn Đức Long, Lê Bá Tú, Phan Tĩnh đi Tiểu Tây (Ấn Độ), Trần Đại Bản, Nguyễn Du, Lê Văn Thu, Đỗ Mậu Thưởng đi Singapore, và lần đầu tiên, vua sai Trần Viết Xương và Tôn Thất Thường sang Pháp và Anh với hai thông ngôn (Thực Lục V, t. 588).
Linh mục Delvaux, tác giả bài Sứ thần Minh Mạng gửi sang Louis-Philippe 1839-1841 (L’Ambassade Minh Mạng à Louis-Philippe 1839 à 1841 (BAVH, 1928, quyển 4, t. 257-264), sau khi kê khai những “tội” mà Louvet và Trương Vĩnh Ký đổ cho Minh Mạng, ông nghiên cứu khá rõ về chuyến đi của phái đoàn VN do Minh Mạng phái sang Pháp năm 1839.
Năm 1839, chiến tranh nha phiến bùng nổ ở Tầu, đã khiến Minh Mạng quyết định, Delvaux viết: “Việc nước Anh đem súng đạn xâm phạm nước Tầu vì quyền lợi thương mại, giáng xuống như một sự đe doạ, như tiếng còi báo động đến từ người Âu”.
Thấy Anh thành công một lần nữa nhờ bạo lực, chính phủ Pháp muốn bắt chước và cho sự hiện diện của hải quân Pháp ở Á Đông là cần thiết, bèn gửi nhiều tầu chiến đến biển Đông. Minh Mạng, lo ngại, nghi ngờ ý đồ của Anh, Pháp; ông muốn biết rõ tại sao tầu chiến Pháp lại thường xuyên ghé vịnh Đà Nẵng, bèn lấy cớ muốn tìm hiểu văn minh tập quán của người Tây phương, cuối năm 1839, ông gửi một phái đoàn sang Pháp, Anh để thăm dò sự thực.
Trong thư ngày 25/4/1840, linh mục Régereau, nguyên trợ tá Giám mục Taberd, giáo sư chủng đạo Pinang, viết:
“Ngày 28/2/1840, một chiến thuyền của vua nước Nam đến Pinang… Chiến thuyền này đến Calcutta để kiểm lại vỏ và thân tầu, trình báo tất cả việc quân Anh ráo riết sửa soạn chiến tranh [16 chiến hạm Anh sẽ tấn công Quảng Đông tháng 6/1840]. Một chiến thuyền khác của nhà vua đi Batavia để xem quân Hòa Lan động tĩnh thế nào, bởi Minh Mạng không ngủ yên. Một chiến thuyền thứ ba gửi đi Luân Đôn và nước Pháp. Nhà vua rộng rãi bỏ ra 20.000 quan tiền để chi phí chuyến đi này. Chắc chắn các sứ giả [VN] sẽ chẳng nói với chính phủ Pháp việc họ đối xử [tồi tệ] với người Pháp như thế nào trong xứ họ, v.v… Mà có nói, cũng chỉ nói láo, chứ gì.” (Delvaux, bài đã dẫn).
Phái đoàn 4 người: 2 sứ giả: Tôn Thất Thường 40 tuổi và Trần Viết Xương, 45 tuổi, và hai thông ngôn 20 và 22 tuổi, thuộc gia đình Võ Dõng, một người nói tiếng Pháp, một tiếng Anh. Đi từ Singapore đến Locmariaquer (Bretagne) ngày 2/11/1840. Tờ Armoricain ở Brest, số ra ngày 25/11/1840, dành nhiều cột cho phái đoàn, mô tả hình dáng, y phục, phỏng vấn, đưa tin, trong đó có những dòng: “Đội hàng hải thương thuyền của nhà vua thường xuyên giao thiệp với Batavia, Pháp ít có gì để trao đổi thương mại với Việt Nam… Những giáo sĩ, sau thời gian bị đán áp, đã được đón nhận ở Việt Nam, ngay cả ở trong triều…” Điểm này cho thấy vua Minh Mạng đã thay đổi chính sách với giáo sĩ và đã chuẩn bị việc giao thương với Anh, Pháp khi gửi phái đoàn sang Pháp.
Đến Paris, phái đoàn được báo chí đón tiếp nồng hậu, được mời đi xem Opéra, ngồi ghế thượng hạng của các chính trị gia hàng đầu. Ngày 5/1/1841, phái đoàn dự cuộc họp của Thượng nghị viện, hội đàm với Thống chế Soult, Thủ tướng và ông Cunin-Gridaine, Bộ trưởng Thương mại.
Tờ Moniteur Universel ra ngày 5/1/1841 kể: “Hôm tiếp kiến ông Bộ trưởng Thương mại, họ mặc đại triều. Mỗi khi thấy điều gì lạ, họ đều thản nhiên rút bút, mực, giấy, gài ở đai lưng ra ghi chép, dù ở ngoài đường, chẳng phiền hà bận tâm gì cả”. Ngày 6/1/1841, tờ báo viết: “Phái đoàn đến Thượng nghị viện ngày 5/1. Tất cả mọi người đều nhìn, họ tỏ ra thản nhiên không hề nao núng trước những con mắt hiếu kỳ.”
Nhưng từ ngày 6/1/1841 trở đi, dường như có lệnh của chính phủ Pháp, không báo chí nào đưa tin gì nữa; ngược lại báo chí công giáo tố cáo mạnh mẽ việc “giết đạo” ở Việt Nam. Giám đốc Hội Thừa sai Ngoại quốc viết thư cho vua Louis-Philippe và cho Đức Giáo Hoàng “báo cáo” sự có mặt các sứ giả của Minh Mạng ở Paris, Giáo hoàng lập tức viết thư cho Louis-Philippe yêu cầu dùng thẩm quyền của nhà vua để đòi ngừng việc đán áp đạo. Nhiều giám mục viết thư cho Thống Chế Soult, Thủ tướng và các Bộ trưởng, được họ hứa sẽ can thiệp.
Giám mục Chalons-sur Marne, rồi giám mục Mans viết thư cho Martin du Nord, Bộ trưởng Tư pháp kiêm Tôn giáo của Pháp, với những lời lẽ cực kỳ mạnh mẽ: “Minh Mạng là bạo chúa điên cuồng nhất, vượt qua tất cả những bạo chúa từng được nói đến trong lịch sử” (Nguyên văn: Minh Mạng, le plus furieux tyran qui surpasse tous ceux dont on a parlé dans l’histoire).(Thư của Prilly, Giám mục Chalons sur Marne gửi Bộ trưởng Tư pháp kiêm Tôn giáo ngày 24/1/1841).
Martin du Nord chuyển thư của hai vị giám mục đến Guizot, Bộ trưởng Ngoại giao, là người thật sự làm chủ nước Pháp từ 1840 đến 1848. Không biết Guizot trả lời thế nào. Dường như Guizot cũng không lợi dụng dịp này để đòi triều đình Huế ngừng đàn áp đạo thiên chúa. Chỉ có vua Louis-Philippe không tiếp phái đoàn, lấy cớ sứ bộ không xin bệ kiến theo đúng nghi thức truyền thống, việc đó chắc để trả lời vua Minh Mạng đã không tiếp các phái đoàn Pháp trước đây. Sau đó phái đoàn sang Anh, rồi trở lại Bordeaux lên tầu về Huế, đến nơi thì vua Minh Mạng đã qua đời, vua mất vì ngã ngựa ngày 20/1/1841, ở tuổi 50. Đại Nam Thực Lục không nói rõ lý do, có lẽ là một truyền thống, nhưng những vị thừa sai biết rõ, thông tin của họ chắc là đúng.
Một số thừa sai cũng sắp lên tầu ở Bordeaux, kể lại: “Tại Pouliac chúng tôi gặp những người trong phái đoàn Minh Mạng sửa soạn về nước, họ rất hài lòng về sự tiếp đón của chúng ta. Chúng tôi dẫn anh trẻ tuổi nhất về phòng trò chuyện. Hỏi anh ta về gia đình, về đất nước, về sự tàn sát đạo ở xứ anh. Anh ta trả lời tất cả với sự lanh trí hiếm có và sự ngây thơ thật thà đáng trọng. Anh ta bảo cha mẹ anh theo đạo; rằng từ nhỏ anh đã quen với các quan đại thần; anh ta đợi đến tuổi 25 (hiện mới 19), sẽ đổi địa vị, và theo đạo của cha mẹ… anh vô cùng mừng rỡ nhận những hình ảnh [đạo chúa] mà chúng tôi gửi tặng cha mẹ anh.” (Annales de la Propagation de la Foi, XIV, 1842, t. 150-151)
Đăng lại những dòng này, Delvaux phê bình: “Người trẻ tuổi này, con của giáo dân, có thể theo đạo (có thể bỏ đạo). Minh Mạng gửi sang Pháp để tỏ thái độ chiết trung của mình, khôn khéo tính trước ảnh hưởng của anh ta tới những người Pháp, cùng đạo”.
Một trong hai vị sứ giả [Tôn Thất Thường hay Trần Viết Xương] sau khi về nước kể rằng: Một vị quan võ hàng đầu trong chính phủ Pháp đã nói với ông: “Tất cả thầy tu đến nước ông toàn bọn khốn nạn vô gia cư vô nghề nghiệp. Nếu vua nước ông thích chặt đầu ai cứ việc, chúng tôi cũng chẳng tiếc gì” [Tous ces prêtes qui vont chez vous ne sont que des misérables sans feu ni lieu. S’il plait à votre Roi de leur trancher la tête, nous ne le regrettons pas]. Những lời này, qua việc dịch lại của cha Miche, đến tai Thống chế Soult, dĩ nhiên ông cải chính, coi như là điều “không thể có”, “không thể tưởng tượng được”.
Có lẽ lời ông đại tướng Pháp không hoàn toàn dưới dạng “phũ phàng” thế này, nhưng chắc ý không sai: quân đội Pháp chẳng màng gì đến việc can thiệp để “cứu đạo”, ta đã thấy thái độ của trung tá Lapierre có để ý gì đến việc “cứu” giám mục Lefèbvre đâu, chỉ muốn đánh chiếm thuộc địa cho Pháp mà thôi.
Sự tiếp đón phái đoàn Việt Nam của chính phủ Pháp chứng tỏ uy tín của nước Nam ở Âu châu, mặc dù giới thừa sai tìm đủ mọi cách bôi nhọ vua Minh Mạng, nhưng hầu như họ đã không đạt được kết quả.
Người ta cũng trách vua Tự Đức đủ điều, nhất là không chịu canh tân đất nước, giết đạo, triều đình hủ lậu, khiến người Pháp có cớ để đánh.
Xin thử nhìn lại: Tự Đức lên ngôi, sau vụ Pháp lén tiêu diệt 5 chiến hạm của ta, để lại thư giọng hách dịch, côn đồ, khiến vua Thiệu Trị tức mà chết. Làm sao Tự Đức có thể tin được quân Pháp? Năm 1857, liên quân Pháp-Y Pha Nho tấn công Đà Nẵng, do giám mục Pellerin dẫn đầu. Làm sao vua Tự Đức có thể tin được giáo sĩ để mở cửa cho họ tự do vào giảng đạo?
Rồi vua Tự Đức phải đánh nhau với Pháp trong gần 20 năm. Thì giờ đâu “canh tân đất nước”?
Thử hỏi Việt Nam trong hai mươi năm chiến tranh (1954-1975) hai miền Nam Bắc có “canh tân” được gì không?
Hồi trẻ, tôi được học về Nguyễn Trường Tộ, tôn sùng ông một cách quá đáng, học rằng: ông đã đưa ra hơn 50 bản điều trần mà vua Tự Đức và triều đình ngu muội không nghe.
Nay già rồi, tôi đọc lại những bản điều trần của ông, không thấy điều gì đáng phục cả:
Về chuyện cải cách kỹ thuật và khoa học, vua Minh Mạng đã sai thám tử có hạng đi trinh thám kỹ nghệ tân tiến, về báo cho ông rồi.
Minh Mạng đã cho thợ làm chiếc tầu đầu tiên chạy hơi nước và Tự Đúc đã có sáu chiếc. Ngoài việc gửi sứ giả đi các nước lân cận để học kỹ thuật của Anh, Pháp, Hoà Lan… Minh Mạng còn bắt con trai của Chaigneau, là Đức, khi anh ta từ Pháp theo cha về VN, phải kể hết cho ông nghe bên Pháp đang có những phát minh gì? Vậy người Việt thời đó không nhà quê, ngố rừng như người ta tưởng.
Nguyễn Trường Tộ cũng không phải là người đầu tiên sang Pháp, ông đi theo Giám mục Gauthier, từ năm 1859 đến 1861, để làm gỉ? Tôi không tin mấy ông Giám mục chuyên làm mật thám cho Tây. Khi về nước, ông làm thông ngôn cho Pháp. Những bản điều trần của ông, lập luận thiên Pháp rõ rệt, đệ lên vua sau khi nước ta đã mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, mà ông vẫn chưa tỉnh ngộ, ông vẫn tin tưởng vào “lòng tốt” của người Pháp, tin rằng chỉ biếu họ vài miếng đất và để họ tự do giảng đạo là xong. Ông khuyên vua nên “hợp tác” với Pháp, dùng giáo sĩ trong việc nội trị. Ông có ngây thơ quá không?
Nếu nghe ông thì bằng dâng nước cho quân đội và giáo sĩ Pháp là xong ư?
Ngày nay, về thăm lăng mộ các vua là niềm đau thương và hân hạnh của người Việt. Vì đó là lịch sử còn mới. Tính tình các vua lộ rõ trong lăng tẩm.
Tự Đức lên ngôi 18 tuổi, khi cha chết bất ngờ vì tình hình đất nước. Lăng Tự Đức rất thơ mộng, đầy vẻ thư sinh, nho nhã, nhẹ nhàng, tượng trưng một tâm hồn cao thượng. Người thanh niên ấy yêu nghệ thuật, chỉ muốn cho dân một cuộc sống thanh bình, có thì giờ chăm sóc từng cành cây ngọn cỏ. Tự Đức là nhà thơ, trong một thế giới khói lửa, giặc đánh phá trong Nam ngoài Bắc, vua tôi quyết tâm giữ nước, nhưng lực bất tòng tâm, tướng tài, can đảm, đều chết cả. Vậy mà người thư sinh đó cũng giữ được nước hơn ba mươi năm.
Lăng Minh Mạng, không bề thế, nhưng khiêm cung, cao nhã, khắc kỷ, để lộ oai quyền và tinh thần bất khuất, với cái oai kín đáo của một vị thâm nho có tài cai trị và giữ nước. Ta có thể tưởng tượng dưới thời Minh Mạng không có tham nhũng vì cái gì vua mua, cũng bắt ghi vào sổ cả. Luật pháp nghiêm minh. Vua coi xét tất cả mọi việc, cô đơn, quyết định tất cả mọi việc, xây dựng một mình, một nước giầu mạnh, hoàn toàn chuyên chế, không có quân xâm lăng, không ai dám xâm lăng.
Mộ Gia Long xa nhất, ở trên vùng núi đồi thơ mộng. Lăng vị vua sáng lập lại nhà Nguyễn đơn giản như một “nhà nghèo “, bởi vua khi còn sống cũng rất giản dị, thủa ở Gia Định, ông xắn quần, đắp lũy cùng với thợ, ông tự lái thuyền đi thăm xưởng đóng tầu và ăn trưa với thợ. Gia Long yên nghỉ tại đây với hai người vợ quý.
Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, là chính hậu, người Thanh Hóa, con gái quan Thái Bảo Tống Phước Khuông, mẹ họ Lê, lấy Nguyễn Ánh năm 1778, hơn Ánh 2 tuồi. Hậu sinh hai trai, trưởng là Chiêu, chết sớm, thứ là Cảnh.
Thừa Thiên cũng bình dân như chồng. Liệt truyện ghi: “Mỗi khi vua đi đánh giặc, Hậu thường đi theo”, “khuyên thăm chính sự”, “tự dệt vải cho quân lính”. Trước kia trong lúc phiêu dạt, phụng dưỡng Hoàng Thái Hậu, nếm trải mọi mùi gian nan hiểm trở, thường thân hành dệt cửi, chính tay may lấy áo trận, để cấp cho quân sĩ. Một hôm thuyền đi gặp giặc, vua đốc quân cố thúc đánh, hậu cũng cầm dùi đánh trống, quân lính tranh nhau phấn khởi thành ra đánh được.”. Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu mất ngày 22/2/1814 (3/2 năm Ất Mùi).
Năm hoàng tử Đởm mới lên ba, vua sai Thừa Thiên nuôi, Hậu đòi phải có giấy tờ đâu ra đấy, vua sai Lê Văn Duyệt viết “khế khoán”. Từ đó Hậu là mẹ chính thức của Minh Mạng.
Khi Hậu mất, Gia Long bắt hoàng tử Đởm vào tế mẹ, quần thần có người đề nghị hoàng tôn Đán, vua bảo: nó là con hoàng hậu có giấy ký nhận đây này.
Qua sự kiện này ta đoán Gia Long đã quyết định cho hoàng tử Đởm lên làm vua từ khi mới ba tuổi. Ngoài ra còn thêm những sự kiện khác: Gia Long rất do dự, mãi sau này mới phong chức thái tử cho Cảnh, có lẽ ông sợ Cảnh chịu ảnh hưởng Bá Đa Lộc sẽ thiên Pháp. Đởm có thầy học là Đặng Đức Siêu, “Khổng Minh” của Gia Long và vua còn cho con tập đi “hành quân” lúc mới 9 tuổi: năm 1801, theo cha từ Gia Định tiến quân đánh trận Thị Nại 1801, trận Phú Xuân 1801, trận Trấn Ninh 1802 và đánh ra Thăng Long, thống nhất đất nước.
Tất cả đều được chuẩn bị kỹ càng cho một vị vua lớn.
Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu được chôn cạnh chồng là trường hợp hy hữu.
Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt, mẹ ruột Minh Mạng, người Huế chính hiệu. 14 tuổi được tuyển vào cung, nhưng bà “giữ gìn” không có con, sợ phải đem con chạy loạn, bận lòng chúa thượng. Đợi đến năm Tân Hợi (1791), sau khi đắp xong thành Gia Định (1790), Hậu 24 tuổi, mới sinh Minh Mạng.
Bà đã nhường con cho Thừa Thiên nuôi, theo ý Gia Long, để con mình sẽ nối nghiệp cha.
Thuận Thiên mất năm 1846, được chôn ở cơ ngơi bên cạnh mộ Gia Long và Thừa Thiên, cảnh đẹp và thơ mộng vô cùng.
Thụy Khuê