Các đồng minh còn có thể chịu đựng sự bắt nạt của Mỹ tới đâu?

Nguồn: Robert E. Kelly và Paul Poast, “How Much Abuse Can America’s Allies Take?”, Foreign Affairs, 08/12/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Sự trỗi dậy của Donald Trump được cho là sẽ làm lung lay trật tự quốc tế tự do. Trong nhiệm kỳ đầu, Trump đã công khai chỉ trích các đồng minh châu Âu lâu năm, rút khỏi các hiệp ước quốc tế như thỏa thuận khí hậu Paris, và phàn nàn rằng Mỹ đang phải bao cấp cho các đồng minh thông qua hỗ trợ quân sự và thâm hụt thương mại.

Tuy nhiên, như đã phân tích trên Foreign Affairs năm 2022, chủ nghĩa đơn phương cứng rắn của Trump không hề phá vỡ các liên minh của Mỹ. Dù bị lung lay và thường xuyên khó chịu trước thái độ bắt nạt của Washington, các đồng minh vẫn không hề rời bỏ siêu cường hàng đầu thế giới. Các chính sách đối ngoại, chi tiêu quốc phòng và liên kết địa chính trị của các đối tác cốt lõi như Pháp, Đức, Nhật Bản, và Hàn Quốc không có sự thay đổi đáng kể nào trong nhiệm kỳ đầu tiên của chính quyền Trump. Thay vào đó, các quốc gia này đã chọn cách chiều theo Trump. Lý do là họ nhận thấy việc nới lỏng quan hệ với Mỹ sẽ gây ra rủi ro lớn hơn cho lợi ích kinh tế và an ninh của họ, hơn là việc cố gắng chống lại những hành vi chỉ trích gay gắt từ ông.

Nhiệm kỳ thứ hai của Trump đã đặt mối quan hệ này vào một phép thử cực kỳ gay gắt hơn. Lần này, thái độ khinh thường của Tổng thống đối với các đồng minh và đối tác của Mỹ còn lớn hơn nhiều. Ông đã đề cập đến nhiều ý tưởng gây sốc như sáp nhập Canada và Greenland, ném bom Mexico, giành lại Kênh đào Panama, và từ bỏ Ukraine và Đài Loan. Cáo buộc các đồng minh đang bóc lột Mỹ, Trump yêu cầu các khoản đầu tư lớn, không rõ ràng vào Mỹ, mà bản chất không khác gì những khoản hối lộ. Điển hình, ông đòi Liên minh châu Âu phải có một khoản bảo lãnh đầu tư khổng lồ 600 tỷ USD để ông tùy ý sử dụng. Trump dường như đang củng cố quan điểm rằng: các liên minh không phải là nền tảng của một mạng lưới cùng có lợi, mà chỉ là một yếu tố trong một hệ thống bảo kê—và đã đến lúc Mỹ phải thu về lợi ích xứng đáng.

Nếu các đồng minh từng hy vọng rằng việc Joe Biden đắc cử vào năm 2020 sẽ khôi phục lại chủ nghĩa quốc tế tự do truyền thống của Mỹ, thì việc Trump tái đắc cử đã chứng minh một điều rằng thái độ hung hăng và cơ sở cam kết dựa trên nguyên tắc có qua có lại rõ ràng trong chính sách đối ngoại Mỹ, vốn lộ rõ trong nhiệm kỳ đầu của Trump, không phải là một sự sai lệch nhất thời. Thay vào đó, như Chiến lược An ninh Quốc gia mới công bố của Mỹ đã thể hiện, cách tiếp cận này có lẽ sẽ trở thành phần cốt lõi trong chính sách đối ngoại của Washington trong tương lai. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng hòa trong tương lai có khả năng sẽ tiếp tục đi theo định hướng chính sách chung của Trump. Thậm chí ngay cả khi Đảng Dân chủ giành lại quyền kiểm soát, khả năng các thành viên Đảng Cộng hòa ủng hộ Trump vẫn có ảnh hưởng trong hệ thống lưỡng đảng sẽ làm xói mòn sự tin cậy của Mỹ với tư cách là một đồng minh.

Cho đến nay, trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump, các đồng minh của Mỹ vẫn chưa thực sự bỏ đi. Vào tháng 10, sau chuyến thăm của Trump đến Nhật Bản và Hàn Quốc, các nhà lãnh đạo của hai nước này đã bày tỏ mong muốn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với tổng thống. Giống như kết luận năm 2022 của chúng tôi, tình hình các đồng minh dường như vẫn ổn. Nhưng họ hiện đang lo lắng hơn rất nhiều so với trước đây. Khác với tám năm trước, các quốc gia không còn có thể phớt lờ viễn cảnh Mỹ có thể không hỗ trợ họ khi khủng hoảng xảy ra. Thay vào đó, trong thập kỷ tới, có khả năng các đồng minh của Mỹ sẽ bắt đầu rời bỏ một cách rõ rệt. Họ vẫn có thể hy vọng vào sự hỗ trợ của Mỹ, nhưng đồng thời họ đang bắt đầu thực hiện chiến lược phòng bị nước đôi trước khả năng Mỹ sẽ vắng mặt khi có vấn đề phát sinh, bằng cách xây dựng các cấu trúc liên minh thay thế, cân nhắc sở hữu vũ khí hạt nhân, và thậm chí là tìm kiếm thỏa thuận hòa bình riêng với các đối thủ khu vực thay vì đối đầu. Vì không thể đoán được Trump sẽ phản ứng thế nào trước lời kêu gọi giúp đỡ trong một cuộc chiến lớn hay một cuộc khủng hoảng hạt nhân với Trung Quốc, Nga hoặc Triều Tiên, các đồng minh của Mỹ buộc phải điều chỉnh chiến lược dài hạn nhằm giảm sự phụ thuộc vào Washington.

Gắn bó trong lo sợ

Trong năm đầu tiên của nhiệm kỳ thứ hai của Trump, các đồng minh của Mỹ vẫn duy trì mối liên kết chặt chẽ với Washington. Tương tự như nhiệm kỳ đầu, nhiều lãnh đạo đồng minh dường như tin rằng họ vẫn có thể thuyết phục Trump ký kết các cam kết và thỏa thuận ràng buộc để giữ Mỹ tiếp tục hỗ trợ nhu cầu an ninh của họ. Những nỗ lực của châu Âu nhằm lôi kéo Washington giúp đỡ Ukraine trong cuộc chiến với Nga đã phơi bày mức độ phụ thuộc sâu sắc của các đồng minh vào Mỹ. Mặc dù Trump có vẻ không muốn giúp Ukraine và đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Tổng thống Nga Vladimir Putin, nhưng nhiều quốc gia châu Âu lại không nhanh chóng tăng cường chi tiêu công nghiệp quốc phòng đủ để đáp ứng nhu cầu chiến tranh của Ukraine một cách độc lập, không cần viện trợ tài chính và vũ khí từ Mỹ. Họ cũng không tìm các giải pháp thay thế nội địa cho hệ thống hậu cần và thu thập thông tin tình báo của Mỹ. Ba năm rưỡi kể từ khi xung đột nổ ra, các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn tìm đến Nhà Trắng để tâng bốc Trump, thay vì tự tìm cách giảm bớt sự lệ thuộc vào Mỹ.

Các đồng minh của Mỹ ở Đông Á cũng tìm mọi cách để xích lại gần Trump thay vì đẩy ông ra xa. Cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều đã chấp nhận các yêu cầu đầu tư từ Trump. Ví dụ, như một phần của thỏa thuận thương mại ký với Washington vào tháng Bảy, Tokyo đồng ý đầu tư 500 tỷ USD vào Mỹ mặc dù việc liệu Nhật Bản có đạt được mục tiêu này hay chi tiết quản lý số tiền đó như thế nào vẫn còn gây tranh cãi. Mặc dù ở gần Trung Quốc, Triều Tiên và Nga, cả hai nước này đều chưa tăng chi tiêu quốc phòng đủ mạnh để tự mình thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ. Lực lượng quân sự Mỹ đồn trú tại Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn duy trì sự liên kết chặt chẽ với quân đội nước sở tại, và các cuộc tập trận chung vẫn tiếp diễn. Trên thực tế, Mỹ đang thúc ép cả hai nước cho phép khí tài quân sự Mỹ trên lãnh thổ của họ được sử dụng trong các chiến dịch tấn công nhằm đối phó với Trung Quốc, chứ không chỉ đơn thuần để bảo vệ nước chủ nhà. Nhận thức rõ ràng rằng họ không muốn đối mặt một mình với các mối đe dọa xung quanh, các đồng minh Mỹ ở Đông Á tiếp tục nhượng bộ các yêu cầu của Trump, ngay cả khi lời lẽ của ông trở nên gay gắt hơn và hành động hung hăng hơn.

Dấu hiệu thay đổi

Như chúng tôi đã mô tả trong bài tiểu luận năm 2022, một lý do khiến nhiều nước ở châu Âu và châu Á liên minh với Mỹ là vì khoảng cách địa lý khiến Mỹ khó trở thành mối đe dọa quân sự trực tiếp. Do đó, ngay cả khi Mỹ không phải là một người bạn đáng tin cậy, những lợi ích chiến lược từ việc hợp tác với Mỹ vẫn đủ hấp dẫn để các đồng minh hy vọng có thể tiếp tục xoa dịu Trump. Tuy nhiên, hy vọng không phải là một chiến lược. Và đó là lý do tại sao những lo ngại về Trump cùng với quỹ đạo chính sách đối ngoại Mỹ trong tương lai sẽ, dù miễn cưỡng, thúc đẩy các đồng minh của Mỹ phải thực hiện chiến lược phòng bị nước đôi.

Mặc dù vẫn tiếp tục phụ thuộc vào Mỹ trong ngắn hạn, các đồng minh này sẽ tìm cách bảo vệ mình trước thái độ vô trách nhiệm của Mỹ trong tương lai. Việc này bao gồm hai hướng chính: tăng chi tiêu quốc phòng trong nước để tự chủ hơn về quốc phòng và cơ sở hạ tầng, và mở rộng tìm kiếm các đối tác khác vì lo sợ Mỹ sẽ không hỗ trợ khi xung đột xảy ra.

Có thể nói, Trump đang gián tiếp thúc đẩy sự thay đổi này. Tổng thống Mỹ luôn yêu cầu các đồng minh phải tăng chi tiêu quốc phòng. Ví dụ, trong Chiến lược An ninh Quốc gia mới của chính quyền Trump, yêu cầu chia sẻ gánh nặng là một chủ đề trọng tâm. Mặc dù Mỹ vẫn khẳng định muốn có một mạng lưới đồng minh mạnh mẽ, đặc biệt ở châu Âu và châu Á, chiến lược này làm rõ vai trò của Washington chỉ nên là một bên “tạo điều kiện và hỗ trợ”, chứ không phải là nhà cung cấp an ninh chính cho các nước khác. Tuy nhiên, bằng cách đặt điều kiện tăng chi tiêu quốc phòng để có quan hệ tốt với Washington, chính quyền Trump cũng vô tình làm giảm nhu cầu được Mỹ bảo vệ của các đồng minh.

Một số thay đổi đã bắt đầu diễn ra. Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường lực lượng tên lửa, và các nhà hoạch định chính sách ở Hàn Quốc đang thảo luận về việc đóng tàu sân bay hoặc phát triển vũ khí hạt nhân – tất cả đều là các bước giúp các quốc gia này tự mình thể hiện sức mạnh. Những động thái này phản ánh sự bành trướng trên biển của Trung Quốc, mối đe dọa hạt nhân từ Triều Tiên, và cả sự không đáng tin cậy của Mỹ. Ở châu Âu, ngân sách quốc phòng đang tiến tới mức 5% GDP, một con số chưa từng có. Mức chi tiêu này có khả năng dẫn đến việc mở rộng đáng kể sức mạnh quân sự ở các nền kinh tế lớn như Pháp, Đức và Ba Lan, cho phép họ hoạt động độc lập hơn trong vai trò cung cấp an ninh cho lục địa. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ các nước này sẵn lòng duy trì mức chi tiêu cao này trong bao lâu. Chính vì lẽ đó, châu Âu vẫn hy vọng không đánh mất chiếc ô an ninh của Mỹ và vẫn đang tìm cách kêu gọi sự hỗ trợ từ Washington.

Một dấu hiệu rõ ràng cho thấy các đồng minh của Mỹ đang thực hiện chiến lược phòng ngừa là khi họ tự phát triển năng lực hậu cần nâng cao, thông qua việc xây dựng các hệ thống C4ISR (Chỉ huy, Kiểm soát, Truyền thông, Máy tính, Tình báo, Giám sát và Trinh sát) của riêng mình mà không cần phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của Mỹ. Để châu Âu hoàn toàn độc lập, cuối cùng họ sẽ cần phải tự chủ trong tất cả các lĩnh vực này. Điều này ngày càng trở nên quan trọng bởi vì Trump đã từng đe dọa cắt thông tin tình báo Mỹ đối với Ukraine, và có những lo ngại về một “công tắc tiêu diệt” được cài đặt trong các hệ thống vũ khí do Mỹ sản xuất, cho phép Washington kiểm soát công nghệ của đồng minh. Chẳng hạn, việc Đức tăng cường chi tiêu quốc phòng đã ưu tiên các nhà sản xuất châu Âu để giảm sự lệ thuộc vào Mỹ. Ngoài ra, những đồng minh Mỹ nghi ngờ về sự đáng tin cậy của chiếc ô hạt nhân Mỹ có thể sẽ theo đuổi vũ khí hạt nhân của riêng họ. Hiện có sự ủng hộ rộng rãi của công chúng Hàn Quốc đối với việc sở hữu vũ khí hạt nhân, và các nhà lãnh đạo Ba Lan cũng đã thảo luận về nhu cầu xây dựng biện pháp răn đe hạt nhân.

Nếu các đồng minh cảm thấy sự đảm bảo an ninh từ Mỹ là không đáng tin cậy, cuối cùng họ có thể buộc phải tiến xa hơn nữa, đó là tìm kiếm thỏa hiệp với các đối thủ của Mỹ. Các đối tác nhỏ và dễ bị tổn thương như Đài Loan và Hàn Quốc có khả năng sẽ đạt được thỏa thuận về các tranh chấp lãnh thổ, phòng thủ tên lửa, hoặc biên giới hàng hải với Trung Quốc, nếu Washington rút khỏi Đông Á. Tương tự, nếu Trump cuối cùng từ bỏ Ukraine, các nhà lãnh đạo ở Kyiv có thể buộc phải chấp nhận tổn thất lãnh thổ và cầu hòa.

Nên hay không nên theo đuổi chiến lược phòng bị nước đôi?

Chiến lược phòng bị nước đôi sẽ rất khó khăn và tốn kém. Lý do rõ ràng nhất khiến các đồng minh Mỹ tiếp tục nhượng bộ Trump là vì quân đội của họ đã liên kết quá sâu sắc với quân đội Mỹ. Để tháo gỡ khả năng tương tác này sẽ mất rất nhiều thời gian và nguồn lực khổng lồ. Hiện tại, các đồng minh Mỹ được tiếp cận nhiều hệ thống hậu cần và thu thập tình báo, như vệ tinh, với chi phí thấp từ Mỹ mà nếu tự làm, họ sẽ phải trả một khoản tiền rất lớn. Hơn nữa, công chúng trên khắp thế giới từ lâu đã quen với chiếc ô an ninh của Mỹ. Việc theo đuổi sự độc lập lớn hơn sẽ đồng nghĩa với thuế cao hơn, cắt giảm chi tiêu xã hội, và có thể là nghĩa vụ quân sự bắt buộc hoặc phát triển vũ khí hạt nhân—tất cả đều là những thay đổi gây sốc và lo lắng cho người dân, và có thể khiến các chính trị gia bỏ phiếu theo đuổi con đường phòng bị nước đôi bị loại bỏ.

Nhưng việc các đồng minh tìm kiếm giải pháp thay thế không hẳn là tin xấu đối với Washington. Nếu các đồng minh của Mỹ trở nên tự chủ hơn trong việc chi trả cho an ninh của chính họ, Mỹ – vốn từ lâu đã phàn nàn về việc các đồng minh “quá giang miễn phí” – sẽ đạt được điều mình hằng mong muốn: các đồng minh có khả năng tự lực cánh sinh cao hơn. Hơn nữa, khi các đồng minh giành được nhiều quyền tự chủ hơn, các nhà hoạch định chính sách ở Washington, kể cả những người theo tư tưởng “Nước Mỹ trên hết”, có khả năng sẽ nhận ra rằng một mạng lưới liên minh vững chắc vẫn mang lại lợi ích cho Mỹ. Điều này là vì nó cung cấp cho Mỹ các điểm tiếp cận để tiến hành các chiến dịch quân sự và tình báo trên khắp thế giới mà không cần phải gánh chịu toàn bộ chi phí.

Trong một thế giới lý tưởng, Mỹ vẫn sẽ là nhà cung cấp an ninh tốt nhất cho các đồng minh. Đối với các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia này, việc hy vọng vào câu nói đùa nổi tiếng của Winston Churchill rằng Mỹ sẽ luôn làm điều đúng đắn sau khi đã thử hết mọi lựa chọn khác là điều đáng giá. Tuy nhiên, các đồng minh này không sống trong một thế giới lý tưởng. Khả năng Mỹ, dưới thời Trump hoặc người kế nhiệm theo đường lối của ông, sẽ thực sự làm điều đúng đắn với các đồng minh đang bị nghi ngờ nhiều hơn bất cứ thời điểm nào trong gần 80 năm kể từ khi hệ thống liên minh Mỹ hiện đại được hình thành. Hy vọng rằng Mỹ cuối cùng sẽ hành động đúng đắn hoặc nhận ra lại lợi ích của các liên minh mạnh mẽ không phải là một chiến lược dài hạn khả thi. Bước đi thận trọng và khôn ngoan nhất hiện nay là phòng bị nước đôi. Các đồng minh của Mỹ vẫn đang gắn bó với Washington ở thời điểm này, nhưng họ đã đủ lo sợ để bắt đầu tìm kiếm sự hỗ trợ ở những nơi khác.

ROBERT E. KELLY là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Quốc gia Pusan. PAUL POAST là Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Chicago và là Nghiên cứu viên Cấp cao Không thường trú tại Hội đồng Chicago về Các Vấn đề Toàn cầu.

Related posts