Tác giả: Bùi Mẫn Hân
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm
Số tháng 5/6
Lời người dịch: Hy vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ hồi phục nhanh chóng sau cơn đại dịch virus corona hoàn toàn tan vỡ. Các số liệu thống kê của Quý I năm 2020 tổng kết cho thấy, tình hình sụt giảm nghiêm trọng: – 6,8% là mức tăng trưởng số âm lần đầu tiên kể từ năm 1992, khi Trung Quốc áp dụng cách phổ biến thống kê theo từng quý và là một thảm hoạ chưa hề xảy ra sau Cách Mạng Văn Hoá.
Virus corona làm tê liệt các động cơ tăng trưởng, bị ảnh hưởng trầm trọng nhất là các lĩnh vực hàng không, du lịch và công nghiệp chế biến.
Ngược lại, tình trạng chung trong sản xuất công nghiệp không quá bi quan, vì trong tháng 3 năm 2020 chỉ thấp hơn 1,1% so với tháng 3 năm 2019. Sản xuất máy tính, các trang thiết bị cho thông tin và điện tử trong tháng 3 năm 2020 thậm chí cao hơn gần 10% so với cùng tháng của năm 2019. Sản xuất máy robot công nghiệp tăng gần 13%. Mức tiêu thụ dầu thô cho cả nước, thước đo hoạt động kinh tế, chỉ thấp hơn 0,1% so với tháng 3 năm 2019. Sản xuất luyện kim và xây dựng đường sắt cũng có tăng trưởng. Do đó, giới lạc quan cho là trong một thời gian ngắn nền kinh tế hoạt động bình thường trở lại.
Nhưng ai có kinh nghiệm về số liệu thống kê do Trung Quốc tô hồng sẽ dè dặt hơn: Không có dấu hiệu lạc quan là kinh tế đang có xu hướng bình thường hóa.
Thực tế cho thấy một tương lai đầy bi quan. Trên thị trường nội địa, các nhà bán lẻ hàng tiêu dùng đã bán ít hơn gần 16% trong tháng 3 này so với năm trước đó. Nhiều cửa hàng, doanh nghiệp và nhà hàng nhỏ vẫn đóng cửa.
Trên thị trường ngoại quốc, nguồn cung hiện nay từ Trung Quốc không là nhu cầu bức thiết. Khách hàng ở châu Âu và châu Mỹ không đặt mua theo chuỗi cung ứng toàn cầu mà tập trung cho các mặt hàng trang thiết bị y tế.
Nhìn chung, kinh tế đình đốn, không tăng trưởng, giảm tiêu thụ, không có đầu tư mới và uy tín tiêu tan. Các doanh nghiệp đang giảm hoạt động trung bình 80%. Mức sản xuất trong ngành công nghiệp ô tô giảm hơn 30%. Sự phục hồi phụ thuộc vào hai yếu tố: Biện pháp hỗ trợ để kích hoạt của chính phủ và tốc độ phục hồi chung trong toàn cầu.
Năm 2019 mức tăng trưởng chung của Trung Quốc là 6,1%. Trước tình hình hiện nay, giới kinh tế tiên đoán mức tăng trưởng cho năm 2020 từ 1 – 3% là thực tế khách quan hơn.
***
Trong vài năm qua, phương sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã có một bước ngoặt cứng rắn. Trong mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc, sự cân bằng giữa hợp tác và cạnh tranh, nghiêng mạnh về phía cạnh tranh Trung Quốc. Hầu hết các nhà hoạch định chính sách và bình luận Mỹ coi chiến lược đối đầu mới này là phản ứng đối với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, nó thể hiện đặc biệt qua Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, nhân vật gây tranh cãi. Nhưng cuối cùng, đặc biệt là do áp lực đang gia tăng với sự bùng phát mới của virus corona và suy thoái kinh tế, tình trạng căng thẳng đang diễn ra này có lẽ sẽ phơi bày sự mong manh và bất an nằm dưới bề mặt của Tập Cận Bình và Bắc Kinh, lòng kiên quyết về sự vững chắc và sức mạnh.
Hoa Kỳ có các phương tiện hạn chế gây ảnh hưởng đến hệ thống chính trị khép kín của Trung Quốc, nhưng áp lực ngoại giao, kinh tế và quân sự của Washington cho Bắc Kinh, sẽ khiến cho Tập Cận Bình và Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) mà ông lãnh đạo phải chịu đựng rất lớn. Thật vậy, một giai đoạn đối đầu chiến lược kéo dài với Hoa Kỳ, như Trung Quốc hiện đang trải qua, sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho những thay đổi táo bạo.
Khi căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc gia tăng, đã có những cuộc tranh luận gay gắt về những điểm tương đồng, và có lẽ quan trọng hơn, đó là sự khác biệt trong sự cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay và cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Bất kể những hạn chế của sự tương tự là gì đi nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã suy nghĩ về các bài học về Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô. Tuy nhiên, trớ trêu thay, Bắc Kinh có thể vẫn lặp lại một số sai lầm gây ra hậu quả nhất của chế độ Xô Viết.
Trong cuộc cạnh tranh qua nhiều thập niên của Chiến tranh Lạnh, sự cứng rắn của chế độ Liên Xô và các nhà lãnh đạo của họ đã chứng tỏ lợi thế quý giá nhất cho Hoa Kỳ. Điện Kremlin đã nhân đôi các chiến lược thất bại, họ gắn bó với một hệ thống kinh tế giẫy chết, tiếp tục một cuộc chạy đua vũ trang tàn khốc và duy trì một đế chế toàn cầu tốn kém không kham được, thay vì chấp nhận những tổn thất có thể gây ra do cải cách triệt để.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng bị hạn chế tương tự bởi sự cứng rắn của hệ thống của họ và do đó họ bị hạn chế khả năng sửa chữa các sai lầm trong chính sách. Năm 2018, Tập Cận Bình quyết định bãi bỏ giới hạn nhiệm kỳ chủ tịch, báo hiệu ý định duy trì quyền lực vô thời hạn. Ông đã tự cho phép mình tạo ra các cuộc thanh trừng nặng tay, bãi nhiệm các quan chức nổi tiếng trong đảng dưới vỏ bọc của phong trào chống tham nhũng.
Hơn thế, Tập Cận Bình đã đàn áp các cuộc biểu tình ở Hồng Kông, bắt giữ hàng trăm luật sư và nhà hoạt động nhân quyền, và áp đặt kiểm duyệt truyền thông chặt chẽ nhất trong thời kỳ sau Mao. Chính phủ đã xây các trại cải tạo cho người Hồi giáo tại Tân Cương, nơi giam giữ hơn một triệu người Duy Ngô Nhĩ, người Kazakhstan và các nhóm thiểu số Hồi giáo khác.
Và ông đã tập trung hóa các quyết định kinh tế và chính trị, đổ các nguồn lực của chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước và cải thiện các công nghệ giám sát của chính quyền. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp này đã làm cho ĐCSTQ yếu hơn: sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước làm biến dạng nền kinh tế và sự giám sát làm tăng chống đối. Sự lây lan của virus corona chỉ đào sâu thêm lòng bất mãn của người dân với chính phủ.
Cuối cùng, các căng thẳng kinh tế và phê bình chính trị xuất phát từ cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nó có thể chứng minh là những gịot nước cuối cùng làm tràn ly nước. Nếu Tập Cận Bình tiếp tục con đường đang làm xói mòn nền tảng chính trị và kinh tế của Trung Quốc, độc quyền hoá trách nhiệm và kiểm soát, thì Tập Cận Bình sẽ khiến cho ĐCSTQ thay đổi thảm khốc.
Con hổ giấy
Từ khi lên nắm quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã thay thế sự lãnh đạo tập thể bằng cách cai trị mạnh mẽ. Trước Tập Cận Bình, chế độ luôn thể hiện tinh thần cao độ trong sự linh hoạt về ý thức hệ và tính thực dụng trong chính trị. Chế độ tránh được các sai phạm bằng cách dựa theo sự đồng thuận trong tiến trình tạo lập quyết định, nó kết hợp quan điểm trong các phe đối thủ và thích nghi các lợi ích đối đầu. ĐCSTQ cũng tránh các cuộc xung đột ở nước ngoài bằng cách đứng ngoài tranh chấp, thí dụ như các tranh luận với Trung Đông, và kiềm chế các hoạt động có thể xâm phạm các lợi ích quốc gia quan trọng của Hoa Kỳ.
Ở trong nước, giới cầm quyền Trung Quốc duy trì hòa bình bằng cách chia sẻ các lợi lộc của việc cai trị. Một chế độ như vậy không có nghĩa là hoàn hảo. Tham nhũng lan tràn và chính phủ thường trì hoãn các quyết định quan trọng và bỏ lỡ các cơ hội đáng giá. Nhưng chế độ đi trước việc tập trung hoá của Tập Cận Bình có một lợi thế khác biệt: tạo ra khuynh hướng cho tinh thần thực dụng và thận trọng.
Trong bảy năm qua, hệ thống đó đã bị dỡ bỏ và thay thế bằng một chế độ khác biệt về phẩm chất, được đánh dấu bởi một mức độ cứng nhắc về ý thức hệ, các chính sách trừng phạt đối với các dân tộc thiểu số và những người chống đối chính trị trong nước, và một chính sách đối ngoại bốc đồng được thể hiện bởi Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), một chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng giá nghìn tỷ đô la với tiềm năng kinh tế mơ hồ, nó dấy lên sự nghi ngờ dữ dội ở phương Tây. Dưới thời Tập Cận Bình, việc tập trung hoá quyền lực đã tạo ra những tình trạng mong manh mới và khiến đảng gặp rủi ro lớn hơn. Nếu lợi điểm trong quy luật cùa nhà lãnh đạo bản lãnh là nhanh chóng đưa ra các quyết định khó khăn, thì nhược điểm là nó làm tăng đáng kể tỷ lệ tạo ra những sai lầm ngớ ngẩn tốn kém.
Việc quyết định dựa trên sự đồng thuận của thời kỳ trước đây có thể làm chậm và không hiệu quả, nhưng nó ngăn cản được những ý tưởng cực đoan hoặc rủi ro khi nó trở thành chính sách.
Dưới thời Tập Cận Bình, việc sửa chữa những sai lầm trong chính sách đã được chứng minh là khó khăn, vì việc đảo ngược các quyết định do cá nhân nhà lãnh đạo mạnh mẽ đưa ra sẽ làm suy yếu hình ảnh không thể sai lầm của Tập. (Về phương diện chính trị, việc thay đổi các quyết định tồi tệ do tập thể lãnh đạo đưa ra dể dàng hơn, bởi vì đổ lỗi cho một nhóm chứ không phải cho một cá nhân). Các đòi hỏi của Tập Cận Bình về lòng trung thành cũng đã kìm hãm các cuộc tranh luận và ngăn cản bất đồng chính kiến trong ĐCSTQ. Vì những lý do này, đảng thiếu sự linh hoạt cần thiết để tránh và đảo ngược những sai lầm trong tương lai trong cuộc đối đầu với Hoa Kỳ. Kết quả có thể là sự mất đoàn kết ngày càng tăng trong chế độ. Một số nhà lãnh đạo đảng chắc chắn sẽ nhận ra những rủi ro và ngày càng báo động rằng, Tập Cận Bình gây nguy hiểm cho vị thế của đảng không cần thiết.
Thiệt hại đối với quyền lực của Tập Cận Bình, gây ra bởi những sai lầm sâu xa hơn cũng sẽ thúc đẩy cho các đối thủ của ông, đặc biệt là Thủ tướng Lý Khắc Cường và các thành viên Bộ Chính trị Uông Dương và Hồ Xuân Hoa, tất cả đều có quan hệ mật thiết với cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Tất nhiên, gần như không thể loại bỏ một kẻ mạnh trong chế độ độc đảng, vì ông kiểm soát chặt chẽ quân đội và lực lượng an ninh. Nhưng ít nhất là sự bất hòa leo thang sẽ gây ra bất an và hoang tưởng cho Tập Cận Bình, làm xói mòn thêm khả năng của ông trong việc phác hoạ một tiến trình tuần tự.
Chịu bao thất bại khi Mao Trạch Đông tiến hành Bước tiến Đại nhảy vọt, một chương trình hiện đại hóa tập trung cho sản xuất thực phẩm, dẫn đến khoảng 30 triệu người chết vì nạn đói vào đầu những năm 1960, Tập Cận Bình, một người mạnh mẽ, đương nhiên lo ngại rằng các đối thủ sẽ nắm cơ hội để chống lại ông. Để tránh các mối đe dọa như vậy, kẻ mạnh thường dùng đến các cuộc thanh trừng, mà Mao đã làm bốn năm sau khi kết thúc Bước tiến Đại nhảy vọt bằng cách phát động Cách mạng Văn hóa, một phong trào nhằm loại bỏ các “thành phần tư sản“ trong xã hội và chính phủ. Trong những năm tới, Tập Cận Bình có thể dựa vào thanh trừng nhiều hơn những gì ông đã làm, làm tăng thêm căng thẳng và mất lòng tin giữa các tầng lớp cầm quyền.
Thời kỳ mong manh trước mặt
Một yếu tố quan trọng trong cuộc đối đầu chiến lược của Washington với Bắc Kinh là việc tách rời kinh tế, một sự giảm thiểu đáng kể trong các mối quan hệ thương mại rộng lớn mà Hoa Kỳ và Trung Quốc đã xây dựng trong bốn thập niên qua. Những người ủng hộ cho việc tách biệt như vậy là Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, người đã phát động một cuộc thương chiến với Trung Quốc vào năm 2018. Trump tin rằng, bằng cách cắt Trung Quốc ra khỏi thị trường rộng lớn và công nghệ tinh vi của Hoa Kỳ, Washington có thể làm giảm đi tiềm năng tăng trưởng của sức mạnh Trung Quốc một cách đáng kể. Bất chấp việc thỏa thuận đình chiến trong cuộc thương chiến sau thỏa thuận tạm thời mà Trump đã ký với Tập Cận Bình vào tháng 1 năm 2020, việc tách rời kinh tế Mỹ-Trung gần như chắc chắn sẽ tiếp tục trong những năm tới, bất kể ai sẽ vào Toà Bạch Ốc, vì làm giảm sự phụ thuộc kinh tế của Hoa Kỳ vào Trung Quốc và kìm hãm sự phát triển sức mạnh của Trung Quốc hiện đang là mục tiêu của hai đảng.
Ngày nay, nền kinh tế Trung Quốc ít phụ thuộc vào xuất khẩu hơn, vì động lực tăng trưởng cho xuất khẩu chiếm 19,5% của GDP trong năm 2018, giảm từ 32,6% trong năm 2008, việc tách rời có thể không làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc quá nhiều như nhiều người đề xuất hy vọng. Nhưng nó chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Trung Quốc, một điều có thể bị khuếch đại bởi sự suy thoái kinh tế trong nước. Sự trì trệ này tự nó có thể là một sản phẩm của tình trạng nợ công đang tăng lên, kiệt quệ tăng trưởng do đầu tư làm chủ đạo và lão hoá dân số nhanh chóng. Hơn nữa, nỗ lực của Bắc Kinh nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn với các chính sách không bền vững, như gia tăng cấp tín dụng ngân hàng và đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng lãng phí làm cho trì trệ còn trầm trọng hơn.
Khi nền kinh tế suy yếu, ĐCSTQ có thể phải đối mặt với sự hao mòn trong ủng hộ phổ biến do mức sống giảm hoặc trì trệ. Trong thời kỳ sau Mao, ĐCSTQ đã dựa rất nhiều vào sự vượt trội về thành quả kinh tế để duy trì tính chính thống của Đảng. Thật vậy, các thế hệ sinh ra sau thời kỳ Cách mạng Văn hóa đã kinh qua trong khi mức sống tăng dần. Một giai đoạn kéo dài của hiệu quả kinh tế bình thường, thí dụ như một vài năm trong đó, tốc độ tăng trưởng chuyển biến trong khoảng từ 3 hoặc 4%, nó mang một ý nghĩa lịch sử đối với các nước đang phát triển, có thể làm giảm mức ủng hộ của dân chúng đối vối Đảng, khi một người Hoa bình thường phải lo cho tình trạng thất nghiệp tăng lên và mạng lưới an ninh xã hội không an toàn.
Trong một môi trường kinh tế xáo trộn như vậy, các dấu hiệu bất ổn xã hội, như bạo loạn, biểu tình rầm rộ và đình công, sẽ trở nên phổ biến hơn. Mối đe dọa trầm trọng nhất đối với sự ổn định của chế độ sẽ đến từ tầng lớp trung lưu Trung Quốc. Các sinh viên tốt nghiệp đại học, họ có được một nền giáo dục tốt và đầy tham vọng sẽ khó có được công việc mong muốn trong những năm sắp tới vì hiệu ứng suy yếu trong nền kinh tế của Trung Quốc. Khi mức sống của họ giảm, tầng lớp trung lưu Trung Quốc có thể quay lưng chống lại đảng.
Điều này đã không rõ ràng lúc đầu: tầng lớp trung lưu Trung Quốc có truyền thống tránh xa chính trị. Nhưng ngay cả khi các thân nhân của họ không tham gia vào các cuộc biểu tình chống chế độ, họ cũng có thể thể hiện sự bất mãn một cách gián tiếp, thí dụ như trong các cuộc biểu tình về các vấn đề như bảo vệ môi sinh, y tế công cộng, giáo dục và an toàn thực phẩm. Tầng lớp trung lưu Trung Quốc cũng có thể bỏ phiếu bằng chân, bằng cách là một số lượng lớn di cư ra nước ngoài.
Suy thoái kinh tế cũng sẽ phá vỡ cấu trúc ô dù bao che của ĐCSTQ, các đặc quyền và ưu đãi mà chính phủ cung cấp cho các thân quyến và cộng tác viên. Trong thời gian gần đây, một nền kinh tế bùng nổ đã mang lại cho chính phủ nguồn thu dồi dào, tổng doanh thu tăng gấp ba lần từ 2008 đến 2018, cung cấp các nguồn lực mà ĐCSTQ cần để bảo đảm sự trung thành của bộ máy cán bộ trung lưu, các giới lãnh đạo địa phương và các xí nghiệp quốc doanh. Khi phép màu kinh tế Trung Quốc không còn năng động, đảng sẽ gặp phải khó khăn khi cung cấp các đặc quyền và tiện nghi vật chất mà các quan chức như vậy mong đợi. Giới lãnh đạo của đảng cũng sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn trong nội bộ để có được sự chấp thuận và tài trợ cho các dự án mà họ quan tâm đặc biệt. Sự bất mãn giữa các tầng lớp lãnh đạo có thể tăng lên nếu các ưu tiên được Tập Cận Bình đánh giá cao, thí dụ như BRI, tiếp tục nhận được sự ưu đãi và mọi người khác phải tiết kiệm.
Cuối cùng, trong trường hợp suy thoái nghiêm trọng, chính phủ Trung Quốc rất có thể sẽ phải đối mặt với sự kháng cự to lớn hơn ở các khu vực ngoại vi của đất nước, đặc biệt là ở Tây Tạng và Tân Cương, nơi có hầu hết tiếng nói của các dân tộc thiểu số của Trung Quốc, và ở Hồng Kông, lãnh thổ của Anh cho đến năm 1997 và vẫn giữ một hệ thống quản trị khác hơn nhiều so với các quyền về tự do dân sự. Chắc chắn, căng thẳng đang leo thang ở các nơi thuộc ngoại vi Trung Quốc sẽ không khiến cho ĐCSTQ sụp đổ. Nhưng chúng có thể làm phiền nhiễu cực kỳ tốn kém. Nếu đảng phải dùng đến những phản ứng gay gắt để khẳng định quyền kiểm soát, và trường hợp này rất có thể xảy ra, Trung Quốc sẽ phải chịu sự chỉ trích quốc tế và các biện pháp trừng phạt mới khắc nghiệt. Sự leo thang vi phạm nhân quyền ở Trung Quốc cũng sẽ đẩy cho châu Âu đến gần Hoa Kỳ hơn. Do đó, nó tạo điều kiện cho sự hình thành một liên minh bài Hoa rộng lớn, mà Bắc Kinh đang cố gắng ngăn chặn trong vô vọng.
Mặc dù sự bất mãn của tầng lớp trung lưu, sự phản kháng của sắc tộc và các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ đã không làm cho Tập Cận Bình mất đi quyền hành, nhưng sự bất ổn như vậy lan tỏa, chắc chắn sẽ làm xói mòn thêm thẩm quyền và nghi ngờ về khả năng cai trị hiệu quả của ông. Sự yếu kém về kinh tế và tinh thần sa sút của giới lãnh đạo sau đó có thể đẩy Bắc Kinh đến một bờ vực, đưa ĐCSTQ đến tai họa.
Gióng lên tiếng trống của tinh thần dân tộc
Về mặt lý thuyết, ĐCSTQ cần có khả năng tránh hoặc giảm thiểu thiệt hại do tình trạng trì trệ kinh tế. Một chiến lược có hiệu quả sẽ kết hợp một số bài học quý giá mà các bậc tiền nhiệm của Tập Cận Bình đã học được từ sự sụp đổ của Liên Xô. Moscow tiếp tục cung cấp viện trợ đáng kể cho Cuba, Việt Nam và một số quốc gia chư hầu ở Đông Âu trong những năm hoàng hôn của Liên Xô. Chế độ này cũng theo đuổi một sự can thiệp quân sự tốn kém ở Afghanistan và tài trợ các ủy nhiệm ở Angola và Đông Nam Á. Để tránh những loại sai lầm đó, Bắc Kinh nên ưu tiên bảo tồn các nguồn lực tài chính hạn chế của mình để lo cho cuộc xung đột của các đại cường chưa đến hồi kết thúc.
Cụ thể, Trung Quốc nên thu hồi các dự án bành trướng, trên hết là Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) và các chương trình ngoại viện khác, như các khoản tài trợ và các khoản vay ưu đãi đã cấp cho Campuchia, Cuba, Venezuela và một số nước đang phát triển ở châu Phi. Bắc Kinh có thể phải chịu cái giá phải trả đáng kể trong ngắn hạn, cụ thể là mất uy tín và thiện chí, nhưng về lâu dài, Trung Quốc sẽ tránh được những nguy cơ bành trướng của đế quốc và bảo toàn đủ các ngân quỹ để tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng của mình, vốn đã cạn kiệt do cho vay quá mức trong thập kỷ qua. Bắc Kinh cũng nên xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ hơn với các đồng minh của Hoa Kỳ, để ngăn Washington chiêu mộ họ vào một liên minh bài Hoa rộng lớn.
Để làm được như vậy, chế độ sẽ phải đưa ra những nhượng bộ kinh tế, ngoại giao, quân sự và chính trị to lớn, như mở cửa thị trường Trung Quốc cho Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu; bảo vệ sở hữu trí tuệ; thực hiện những cải tiến đáng kể về nhân quyền; và từ bỏ một số yêu sách lãnh thổ nhất định. Chính phủ của Tập Cận Bình đã thực hiện các biện pháp để sửa chữa mối quan hệ với Nhật Bản. Nhưng để thực sự ve vãn với các đồng minh của Hoa Kỳ và ngăn chặn trì trệ, Tập Cận Bình hoặc những người kế nhiệm sẽ cần phải đi xa hơn, thực hiện các cải cách theo định hướng thị trường để bù đắp tổn thất kinh tế do việc tách rời.
Chương trình Tư nhân hóa theo quy mô lớn của các doanh nghiệp nhà nước là một phạm vi tốt để bắt đầu. Những đại gia khổng lồ không hiệu quả này kiểm soát gần 30 ngàn tỷ đô la trong các tài sản và tiêu thụ khoảng 80% tín dụng ngân hàng khả dụng, nhưng chỉ đóng góp từ 23 đến 28% của GDP. Những lợi ích về hiệu quả đạt được bằng cách giới hạn vai trò trực tiếp của nhà nước trong nền kinh tế sẽ quá đủ để bù đắp cho sự mất mát của thị trường Hoa Kỳ. Nhà kinh tế học Nicholas Lardy đã ước tính rằng những cải cách kinh tế thật sự, đặc biệt là những cải cách doanh nghiệp nhà nước, có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc bằng hai phần trăm điểm trong thập kỷ tới.
Thật không may, dường như Tập Cận Bình không chấp nhận theo chiến lược này. Rốt cuộc, cách này đối nghịch với các quan điểm ý thức hệ đã ăn sâu trong ông. Hầu hết các sáng kiến về chính sách đối ngoại và an ninh gần đây của Trung Quốc đều mang dấu ấn cá nhân của ông. Cắt giảm hoặc từ bỏ chúng sẽ được coi là một sự thừa nhận thất bại. Do đó, ĐCSTQ có thể bị giới hạn trong các điều chỉnh chiến thuật: thúc đẩy quan hệ đối tác công tư trong nền kinh tế, bãi bỏ một số lĩnh vực nhất định hoặc giảm công chi. Các biện pháp như vậy sẽ thể hiện sự cải thiện, nhưng có lẽ sẽ không tăng đủ doanh thu cũng như đủ mạnh để sức thu hút đối với các đồng minh của Hoa Kỳ để thay đổi quyết liệt diễn biến trong cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Thay vào đó, Tập Cận Bình có thể sẽ gióng lên hồi trống về tinh thần dân tộc Trung Quốc để chống Mỹ. Kể từ khi có các cuộc chống đối tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, nó đã làm cho đảng lung lay tận cốt lõi và dẫn đến một cuộc đàn áp của chính phủ đối với phe bất đồng chính kiến, ĐCSTQ đã không ngừng lợi dụng tình cảm dân tộc để củng cố tính chính thống. Trong trường hợp tách rời và suy thoái kinh tế, đảng có thể sẽ tăng cường những nỗ lực đó. Ban đầu, điều này không quá khó: hầu hết người Hoa đều tin rằng Hoa Kỳ bắt đầu cuộc xung đột hiện tại để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Nhưng trớ trêu thay, việc thổi bùng ngọn lửa của tinh thần dân tộc cuối cùng có thể khiến đảng khó chuyển sang chiến lược linh hoạt hơn, vì lập trường chống Mỹ cứng rắn sẽ khóa chặt trong xung đột và hạn chế các lựa chọn chính sách của Bắc Kinh.
Sau đó, đảng sẽ phải chuyển sang kiểm soát xã hội và đàn áp chính trị. Nhờ vào bộ máy an ninh rộng lớn và hiệu quả, đảng có ít khó khăn để ngăn chặn những thách thức nội bộ đối với chính quyền. Nhưng đàn áp sẽ tốn kém. Đối mặt với tình trạng bất ổn gia tăng do sự đình trệ kinh tế, đảng sẽ phải dành nguồn lực đáng kể cho sự ổn định, chủ yếu là phải hy sinh chi phí cho các ưu tiên khác. Kiểm soát xã hội nghiêm ngặt cũng có thể làm tha hóa một số giới thượng lưu, chẳng hạn như doanh nhân tư nhân và các học giả và nhà văn cao cấp. Việc đàn áp đang leo thang có thể tạo ra sự kháng cự lớn hơn ở các khu vực ngoại vi của Trung Quốc, Tây Tạng, Tân Cương và Hồng Kông, và khơi gợi sự chỉ trích quốc tế, đặc biệt là từ các nước châu Âu mà Trung Quốc cần ve vãn.
Sau cơn ngập lụt
ĐCSTQ vẫn còn lâu mới chết. Ngay khi Trung Quốc thua khích khao trong một cuộc xung đột quân sự trực tiếp với Hoa Kỳ, đảng có thể nắm chặt quyền lực. Điều đó nói rằng, ở trong nước, chế độ bị bao vây bởi tình trạng đình trệ kinh tế và bất ổn xã hội gia tăng, và ở ngoài nước, chế độ bị tình trạng cạnh tranh trong các đại cường vốn đã có thể dễ vỡ. ĐCSTQ có thể sẽ hổn loạn khi tìm cách thích nghi để khởi động. Sự thối rữa sẽ diễn ra từ từ nhưng sau đó lan nhanh.
Chuyện có thể xảy ra, nhưng không chắc là có khả năng, đó là tình trạng bất mãn đang gia tăng trong chế độ có thể thúc đẩy các thành viên cấp cao tổ chức một cuộc đảo chính trong cung đình để thay thế cho Tập Cận Bình. Tuy nhiên, đảng đã áp dụng các kỹ thuật chống đảo chính tinh vi: Văn phòng Trung ương của Ủy ban Trung ương giám sát việc liên lạc giữa các thành viên của Ủy ban, cơ quan duy nhất có thể loại bỏ được Tập Cận Bình. Hơn nữa, những người trung thành với Tập chế ngự số thành viên của Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương, và quân đội nằm dưới sự kiểm soát của ông. Trong hoàn cảnh như vậy, một âm mưu chống lại nhà lãnh đạo tối cao sẽ cực kỳ khó khăn để thực hiện.
Một kịch bản khác có thể xảy ra là một cuộc khủng hoảng tạo ra sự chia rẽ giữa các tầng lớp lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, do đó làm tê liệt bộ máy đàn áp đáng sợ của chế độ. Một sự kiện như vậy có thể được kết thúc bởi các cuộc biểu tình lớn mà lực lượng an ninh không thể ngăn chặn. Cũng như các cuộc biểu tình ở Thiên An Môn, các phân hoá có thể nổi lên giữa các nhà lãnh đạo cao cấp về cách đối phó với người biểu tình, do đó, nó cho phép phong trào đạt được động lực và thu hút sự ủng hộ mở rộng trên toàn quốc. Nhưng kịch bản này, mặc dù thu hút, khó có thể thành hiện thực, vì đảng đã đầu tư rất nhiều vào trong việc giám sát và kiểm soát thông tin và đã phát triển các phương pháp hiệu quả để đàn áp các cuộc biểu tình của đại chúng.
Kịch bản sẽ kéo theo sau khả năng lớn nhất để thay đổi triệt để là một cuộc đấu tranh về kế nhiệm sẽ xảy ra, nếu Tập Cận Bình qua đời hoặc từ chức vì bệnh tật. Thông thường, cuộc đấu tranh giành quyền lực sau khi chấm dứt sự cai trị của kẻ mạnh tạo ra một nhà lãnh đạo lâm thời yếu kém: chúng ta xem trường hợp Thủ tướng Liên Xô Georgy Malenkov, người kế nhiệm cho Stalin, hoặc Chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, người kế nhiệm cho Mao. Những nhà lãnh đạo như vậy thường bị đẩy ra bởi một đối thủ mạnh hơn với viễn tương cải cách: chúng ta hảy nghĩ tới Nikita Khrushchev ở Liên Xô và Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc. Đứng trước các nhu cầu của nhà lãnh đạo mới này đảng cần khẳng định quyền lực và đưa ra một chương trình nghị sự khác, hấp dẫn hơn, chuyện không chắc xảy ra là tinh thần độc đoán cứng rắn của Tập sẽ tồn tại cho đến cuối thời kỳ cai trị của ông.
Điều đó sẽ để lại cho nhà lãnh đạo mới chỉ có hai lựa chọn. Ông ta có thể trở lại chiến lược sinh tồn mà đảng đã có trước Tập Cận Bình bằng cách khôi phục vai trò lãnh đạo tập thể và chính sách đối ngoại có nhiều rủi ro. Nhưng ông ta có thể cảm thấy rằng đây là một việc khó thực hiện, vì đảng và tất cả các chiến lược sinh tồn trước đó của đảng có thể đã bị mất uy tín vào thời điểm này. Vì vậy, thay vào đó, ông ta có thể lựa chọn cải cách triệt để hơn để cứu đảng. Mặc dù không chọn nền dân chủ tự do, nhưng trong trường hợp này, ông sẽ đẩy lùi sự đàn áp, nới lỏng sự kiểm soát xã hội và thúc đẩy cải cách kinh tế, giống như Liên Xô đã làm giữa năm 1985 và sụp đổ vào năm 1991. Một tiến trình hành động như vậy có thể thu hút cho giới lãnh đạo của đảng hơn, họ đã bị tổn thương bởi hai thập kỷ cai trị do nhà lãnh đạo tàn bạo; việc này cũng có thể cộng hưởng với khao khát của giới trẻ Trung Quốc cho một hướng đi mới.
Nếu các nhà cải cách chiếm thế thượng phong và dấn thân vào con đường như vậy, thì vấn đề quan trọng nhất là liệu họ có thể tránh được “nghịch lý Tocqueville” hay không, nghịch lý được đặt theo tên của lý thuyết gia chính trị Alexis de Tocqueville. Ông đã quan sát rằng những cải cách mà một chế độ độc tài suy yếu theo đuổi có xu hướng kích hoạt một cuộc cách mạng mà cuối cùng nó có thể làm lật đổ chính chế độ độc tài của nhà cải cách.
Tuy nhiên, các cải cách ôn hoà có thể hiệu quả hơn ở Trung Quốc so với ở Liên Xô, bởi vì một nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ không phải đối phó với một đế chế sụp đổ, như nhà lãnh đạo Liên Xô cuối cùng, Mikhail Gorbachev, đã làm ở Đông Âu. Một nhà lãnh đạo mới cũng sẽ không phải đối mặt với sự tan rã của quốc gia, như Liên Xô đã làm vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, khi tất cả 15 nước cộng hòa Xô viết bắt đầu từ trung tâm, bởi vì các dân tộc thiểu số không phải là người Hoa chiếm chưa đến 10% dân số Trung Quốc. Họ có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng ở Tây Tạng và Tân Cương, nhưng nếu không, các dân tộc thiểu số không gây ra mối đe dọa thực sự nào đối với vấn đề toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc.
Cho dù sự rút lui chính trị của Tập Cận Bình có kết qủa là gì đi nửa, ĐCSTQ có thể sẽ trải qua những thay đổi nghiêm trọng. Trong một kịch bản tốt nhất, đảng có thể thành công trong việc biến mình thành một chế độ “tốt bụng, hiền lành hơn“, một chế độ ủng hộ các cải cách kinh tế và chính trị và tìm cách hòa giải với Hoa Kỳ trong vấn đề địa chính trị. Cuối cùng, ĐCSTQ có thể không còn được nhận ra. Trong một kịch bản xấu nhất, sự thối rữa thể chế trong tận cùng cội rể, tinh thần lãnh đạo kém hiệu quả và huy động các phong trào chống chế độ, tất cả rất có thể gây ra một cuộc hạ cánh khó khăn. Nếu điều đó xảy ra, nó sẽ là một trong những điều trớ trêu lớn lao nhất trong lịch sử. Bất chấp những bài học mà ĐCSTQ đã học được từ sự bùng nổ của Liên Xô và các bước cần thực hiện từ năm 1991 để tránh số phận tương tự, việc chấm dứt chế độ độc đảng ở Trung Quốc có thể diễn ra theo một kịch bản tương tự.
Người đàn ông bệnh hoạn của Đông Á
Những người tin vào tinh thần bền bỉ và khả năng phục hồi cai trị của ĐCSTQ xem một kịch bản như vậy có thể là ảo mộng thuần túy. Nhưng phản ứng bất cẩn ban đầu của Trung Quốc về sự bùng phát coronavirus và sự phẫn nộ sau đó của cộng đồng khiến họ phải suy nghĩ lại. Cuộc khủng hoảng về y tế công cộng tồi tệ nhất trong lịch sử của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã hé lộ một số điểm yếu đáng kể. Khả năng thu thập, xử lý và hành động dựa trên thông tin quan trọng của chế độ là ít gây ấn tượng so với hầu hết nhiều người dự đoán.
Khi nghiên cứu về các khoản đầu tư khổng lồ trong việc kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh mà Trung Quốc đã thực hiện kể từ khi dịch SARS bùng phát vào năm 2002-3, và phương cách chấp hành các luật về tình trạng khẩn cấp vào năm 2007, thật đáng kinh ngạc khi thấy chính phủ Trung Quốc sai phạm ngay từ đầu trong dịch bệnh coronavirus mới. Chính quyền địa phương ở Vũ Hán, trung tâm của vụ dịch bùng phát, đã che giấu thông tin quan trọng cho công chúng ngay sau khi các chuyên gia y tế gióng chuông báo động, giống như Jiang Yanyong (Tưởng Nhan Vĩnh), một cựu quân y sĩ, đã làm vào năm 2003 về SARS. Mặc dù họ đã nhận được báo cáo từ Vũ Hán về sự lây lan của virus vào đầu tháng 1, nhưng hầu hết các thành viên của ban lãnh đạo cấp cao đã không có biện pháp nghiêm chỉnh nào trong hai tuần.
Cuộc khủng hoảng cũng đã hé lộ tình trạng mong manh của sự cai trị mạnh mẽ của Tập. Một lý do khả dĩ khiến cho Bắc Kinh không thực hiện hành động công hãm để ngăn chặn dịch bệnh bùng phát ngay từ đầu là có thể đưa ra một vài quyết định quan trọng mà không cần sự chấp thuận trực tiếp của Tập Cận Bình, và ông phải đối mặt với những đòi hỏi nặng nề về thời gian và sự quan tâm hạn chế của mình. Một người táo bạo dành độc quyền ra quyết định cũng có thể dễ bị tổn thương về mặt chính trị trong cuộc khủng hoảng như vậy. Một loạt các quyết định mà Tập đưa ra sau khi phong toả Vũ Hán bắt đầu, như gửi Thủ tướng Lý Khắc Cường đến trung tâm của dịch virus thay vì tự mình đi và không ai ở nơi công cộng nhìn thấy trong gần hai tuần, làm suy yếu hình ảnh của ông ta như là một nhà lãnh đạo kiên quyết xuất hiện đúng lúc mà hệ thống tò ra như không còn kiểm soát. Ông khẳng định lại quyền kiểm soát chỉ vài tuần sau khi cuộc khủng hoảng bắt đầu bằng cách sa thải các lãnh đạo đảng phụ trách thành phố và tỉnh nơidịch bệnh bắt đầu và áp đặt các biện pháp kiểm duyệt chặt chẽ trên báo chí và truyền thông xã hội.
Nhưng khuôn khổ ngắn khi phương tiện truyền thông xã hội Trung Quốc và thậm chí cả báo chí chính thống nổ ra sự phẫn nộ hé lộ cho thấy sự kiểm soát thông tin của ĐCSTQ đã trở nên khó khăn như thế nào và làm nổi bật quyền lực tiềm tàng của xã hội dân sự Trung Quốc. Vì những lý do chưa được rõ, hệ thống kiểm duyệt của Trung Quốc hoạt động tồi tệ trong khoảng hai tuần sau khi phong toả ở Vũ Hán được công bố. Trong thời gian đó, mọi người đã có thể tìm hiểu chính phủ đã bịt miệng các chuyên gia y tế như thế nào, những người đã cố gắng để cảnh báo cho công chúng.
Sự chỉ trích của chính phủ lên đến đỉnh điểm khi Lý văn Lượng, một bác sĩ vào cuối tháng 12 là một trong những người đầu tiên cảnh báo chính quyền Trung Quốc về sự nguy hiểm của COVID-19, căn bệnh do coronavirus gây ra, và sau đó bị thẩm vấn và bịt miệng do cảnh sát địa phương, ông đã chết vì căn bệnh này vào ngày 7 tháng 2, cho thấy là ĐCSTQ có thể mất sự hỗ trợ của công chúng một cách nhanh chóng trong tình huống khủng hoảng.
Các sự kiện trong vài tháng qua đã cho thấy sự cai trị của ĐCSTQ dễ vỡ hơn nhiều so với nhiều người tin tưởng. Điều này củng cố trường hợp cho một chiến lược của Hoa Kỳ về duy trì áp lực để gây ra thay đổi chính trị. Washington nên duy trì tiến trình này; cơ hội thành công của Hoa Kỳ càng ngày càng tốt đẹp hơn.