MỐI NGUY CÒN ĐÓ

Trong bối cảnh và cục diện thế giới hiện nay, nhất là với những gì đang xảy ra tại Hoa Kỳ

cho chúng ta thấy rằng mối nguy cơ sống lại của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn hiện hữu.

Năm 1987, nhà lãnh đạo Liên Xô, Mikhail Gorbachev, đã nói về một phong trào hồi sinh các giá trị của của nước Nga năm 1917, trước một nhóm các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Liên Xô (ĐCSLX), cũng có những khách mời bao gồm Oliver Tambo của Đại hội Dân tộc Phi (African National Congress – ANC), và Yasir Arafat của Tổ chức Giải phóng Palestine (Palestine Liberation Organisation – PLO). Những biểu ngữ đỏ vàng được giăng khắp mọi nơi trích dẫn khẩu hiểu của nhà thơ cộng sản Liên Xô Vladimir Mayakovsky “Lenin đã sống, Lenin đang sống, Lenin sẽ sống mãi!”

Lịch sử luôn luôn lập lại. Khi thế giới phát triển thịnh vượng, người ta ghét cộng sản, ghét xã hội chủ nghĩa, ghét bọn cánh tả. Nhưng khi thế giới, nhất là Hoa Kỳ và phương Tây có những bước thụt lùi thì khắp nơi phong trào xã hội chủ nghĩa, thiên tả, thậm chí bọn cộng sản cơ hội mọc lên như nấm độc.

Chẳng lẽ trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa cộng sản còn sót lại tại những quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển và lan rộng ra khắp thế giới. Chủ nghĩa cộng sản sẽ hồi sinh?

Thực tế từ Cách mạng tháng 10 Nga đến nay, những gì mà những người cộng sản tin là làm được, hóa ra chẳng làm được gì. Một nhà nước độc quyền, độc tài bóp nghẹt mọi sự sáng tạo,sự tăng trưởng trong khi tạo ra một giai cấp thống trị mới, giai cấp vô sản, vốn là những người không có đủ chất xám để sáng tạo để xây dựng lại những gì họ đã tàn phá trong cách mạng vô sản. Để kích thích người dân lao động và dựa vào đảng, người ta tạo ra vố những kẻ thù, những thế lực thù địch, những kẻ tự diễn biến, bọn xét lại, bọn tàn dư đế quốc. Nói chung là tạo ra bên trong lòng xã hội cộng sản vô số kẻ thù mà đa số là không tồn tại. Mọi người riết ráo truy tìm kẻ thù để tiêu diệt và dĩ nhiên họ đã giết lầm lẫn nhau trong đại vô số các trường hợp.

Tính đến thời điểm của Stalin, tương lai của chủ nghĩa cộng sản thế giới đã vô cùng tồi tệ. Những ngọn lửa đầu tiên của cách mạng ở Trung Âu thời hậu Thế chiến I đã bị dập tắt. Liên Xô tự thấy mình bị cô lập, còn đảng cộng sản ở những nơi khác đều rất nhỏ bé và đang bị bao vây. Vào những thập niên 1920 nước Mỹ phát triễn vĩ đại nhưng cả thế giới thấy rằng nước Mỹ không phải là cộng sản mà là một quốc gia tư bản điển hình. Trong khi đó Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác vẫn còn đói rách lắm và cứ dồn hết tâm não vào việc nghiên cứu các thứ lý thuyết vớ vẫn.

Nhưng những sai lầm của kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã cứu vớt phe cộng sản. Sự sụp đổ của Phố Wall vào năm 1929 và sau đó là Đại Suy thoái đã biến những ý tưởng xã hội chủ nghĩa về sự bình đẳng và kế hoạch hóa của nhà nước trở thành lựa chọn thay thế hấp dẫn cho chủ nghĩa tư bản thị trường. Quân đội cộng sản cũng nổi lên như một trong số ít các lực lượng có khả năng chống lại mối đe dọa của các binh đoàn quân phát xít thiện chiến.

Ngay cả ở những nơi chẳng phải đất hứa với chủ nghĩa cộng sản như Mỹ, vốn thù ghét chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa xã hội vô thần, cũng đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho các khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản phát triển. ống lại lực lượng phát xít Đức càng trở lên lớn mạnh hàng ngày.

Nhưng trong khi chủ nghĩa cộng sản đang suy tàn ở phương Bắc, nó lại dần mở rộng ở phương Nam. Ở đó, những lời hứa của chủ nghĩa cộng sản về sự hiện đại hóa nhanh chóng do nhà nước lãnh đạo đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà dân tộc chủ nghĩa chống thực dân. Ở đây một làn sóng đỏ thứ ba đã mở rộng, nó nổ ra ở Đông Á vào thập niên 1940, sau đó lan dần sang các nước phương Nam hậu thuộc địa từ cuối thập niên 1960.

Phương Tây cũng chứng kiến sự hồi sinh của chủ nghĩa Marx trong những năm 1960, nhưng những người theo chủ nghĩa Marx ở phương Tây trong giai đoạn này lại theo đuổi quyền tự do cá nhân, dân chủ trong cuộc sống hàng ngày và chủ nghĩa chung sống hòa bình hơn là các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx Lenin, đấu tranh giai cấp và cướp chính quyền để xây dựng nền chuyên chính vô sản.

Từ cuối những năm1970 một trật tự mới Mỹ dẫn đầu, thống trị bởi thị trường toàn cầu, theo sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào cuối những năm 1980, đã gây ra khủng hoảng cho những người cấp tiến ở khắp nơi. Ở phương Nam, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã ép buộc các cải cách thị trường lên các nước hậu cộng sản, và một số cựu lãnh đạo cộng sản đã hăng hái chuyển đổi sang chủ nghĩa tân tự do. Hiện chỉ còn tồn tại một số ít các quốc gia cộng sản trên danh nghĩa: Triều Tiên và Cuba, và những nước đậm chất tư bản hơn là Trung Quốc, Việt Nam và Lào.

Ngày nay, hơn một phần tư thế kỷ sau khi Liên Xô tan rã, liệu chúng ta có được chứng kiến lần hồi sinh thứ tư của chủ nghĩa cộng sản?

Chúng ta chỉ mới ở đầu một giai đoạn của những thay đổi lớn về kinh tế và bất ổn xã hội. Khi chủ nghĩa tư bản, với công nghệ cao, nhưng lại không bình đẳng, thất bại trong việc cung cấp đủ số việc làm với mức lương chấp nhận được, thì xã hội đặc biệt giới trẻ có thể sẽ đòi hỏi việc áp dụng những chính sách kinh một chương trình nghị sự kinh tế cấp tiến hơn. Khi ấy, một phe khuynh tả mới có thể thành công trong việc thống nhất những người thua cuộc, cả giới trí thức và công nhân, đi theo một trật tự kinh tế mới. Chúng ta đang nhìn thấy nhu cầu về một nhà nước tái phân phối thu nhập nhiều hơn. Những ý tưởng như thu nhập cơ bản phổ quát, mà Hà Lan và Phần Lan đang thử nghiệm, là rất gần với tầm nhìn của Marx về khả năng của chế độ cộng sản trong việc đáp ứng nhu cầu của mọi người – “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu.” Cái này có nhiều người nghe thì mừng, mà những người chống cộng sản thì nghe lạnh tận sống lưng.

Sẽ không có sự quay lại của chủ nghĩa cộng sản kiểu kế hoạch năm năm và những trại cải tạo lao động. Tuy nhiên, nếu sự bất công, bất bình đẳng vẫn tiếp tục tồn tại trên thế giới, thì không ai có thể nói trước là một thứ chủ nghĩa cộng sản mới sẽ được hình thành.

Nay chúng ta quay lại với chủ nghĩa cộng sản Marx Lenin. Thứ chủ nghĩa này hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, nhất là trong giai đoạn tích lũy của chủ nghĩa tư bản. Những người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, cũng như những người cánh tả khác, đều đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bi thảm của nông dân và công nhân cũng như sự lan tràn của lao động nhập cư và lao động trẻ em. Những người cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát trong Chiến tranh Thế giới I như là hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các cường quốc để giành giật thị trường nước ngoài.

Nhưng một thế kỷ cầm quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay vẫn còn đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và Trung Quốc – đã làm rõ cái giá phải trả về nhân mạng của một quyết tâm điên rồ muốn lật đổ chủ nghĩa tư bản. Hết lần này đến lượt khác, nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã gây ra cái chết của một số lượng người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 – ở Liên Xô, Trung Quốc, Mông cổ, Đông Âu, Đông Dương, Phi châu, Afghanistan và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng sản đã làm thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số học.

Những người bolshevik, cũng như nhiều đối thủ của họ – là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà ông gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, rồi đến lượt mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là một thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình dung ra một kỷ nguyên mới của tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết của nó là sự phá hủy “chế độ nô lệ tiền lương” và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.

Tiền lệ khủng khiếp về tổn thất nhân mạng của Liên Xô đã không ngăn cản được các nhà cách mạng cộng sản khác. Mao Trạch Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn lên vị trí cao nhất của phong trào cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949, ông và các đồng chí của ông trở thành người chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng khổng lồ trong cuộc thử nghiệm của Liên Xô như là yếu tố nội tại của thành công!

Chính sách Đại Nhảy Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ 1958 tới 1962, là nỗ lực tập thể hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và mở rộng công nghiệp về nông thôn. “Ba năm lao động cần cù và chịu đựng [để có] ngàn năm thịnh vượng”, là một trong những câu khẩu hiệu nổi bật thời đó.

Các báo cáo sai lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân sung sướng vui vẻ tràn ngập các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh hoa cộng sản cầm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao đã dẫn tới một trong những nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm chết đói khoảng từ 16 đến 32 triệu người. Sau thảm họa, mà những người sống sót nói tới như là “làn gió cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập thể hóa nông nghiệp. Như ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng chúng ta muốn chủ nghĩa xã hội”.

Những mất mát khủng khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại tính tàn bạo cộng sản nhân danh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục được Campuchia vào năm 1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng triệu người ra khỏi các thành phố, đẩy họ về nông thôn làm việctrong các công xã và các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm cách biến Campuchia thành một xã hội thuần nông không có giai cấp.

Từ Nga tới Trung Quốc, từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng sản đều chia sẻ những đặc điểm chung chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ tư tưởng đấu tranh với những thủ đoạn vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh ý chí tuyệt vời – điều kiện tiên quyết để đạt được những gì mà chỉ có sự đổ máu không cần lưu tâm đến mới có thể mang lại.

Nhưng bằng chứng về nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong nhiều thập niên đã gây sốc nặng cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do ở phương Tây, những người cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng xã hội của các nhà cách mạng. Nhiều người phản đối Liên Xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội, và quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước Nga, cho tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ việc tàn sát hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu Gulag. Không tìm đâu thấy ông biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết đói hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các nông trang tập thể.

Một số nhà xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự do nếu không có thị trường và sở hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy vọng sẽ điều tiết thay vì xóa bỏ nó, họ bị cáo buộc là những kẻ phản bội. Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã hội chủ nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường có sự phân phối. Nhưng vẫn còn quá nhiều những tên cộng sản cuồng tín ngày đêm kêu gọi đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản.

Những giá trị có tính mê muội của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn tồn tại, dù không theo kiểu Marxist chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc gia này vẫn tiếp tục hoài nghi thị trường tự do và sở hữu tư nhân, cái gì sẽ xảy ra cho đảng cộng sản nếu người dân thường được độc lập trong suy nghĩ và hành động, khi cho họ quyền theo đuổi những lợi ích của chính họ mà họ thấy phù hợp, được có đời sống riêng tư, xã hội dân sự và không gian chính trị tự do?

Do đó chúng ta đang thấy bóng dáng đe dọa của chủ nghĩa cộng sản hồi sinh dưới các hình thức và tên gọi như Black Lives Matter và Antifa. Thế giới lại đang bước vào một giai đoạn với sự thách thức to lớn đến từ Trung Quốc, quốc gia cộng sản lớn nhất thế giới đang có tham vọng phủ bóng cờ đỏ búa liềm từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc.

Ls Lê Đức Minh

Related posts