Thanh Hải
Tác giả Richard A. Bitzinger, nhà phân tích bảo mật quốc tế độc lập và là cựu thành viên cấp cao của Chương trình Chuyển đổi Quân sự tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, đã có bài phân tích với tựa đề “Hành vi xấu của Bắc Kinh đang phản tác dụng” đăng trên The Epoch Times ngày 2/6/2021.
Sau đây là phần chuyển ngữ nội dung bài viết:
Malaysia, một quốc gia thường duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc, cách đây vài ngày đã có chút cảm nhận về “sự quyết đoán đáng sợ” của Bắc Kinh. Vào ngày 1/6, một đội máy bay quân sự của Trung Quốc, bay theo đội hình chiến thuật, đã bay đến cách phía đông Malaysia 60 hải lý, trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia ở Biển Đông . Lực lượng không quân Malaysia sau đó đã điều một số máy bay chiến đấu của họ để đánh chặn các máy bay này.
Vụ việc này chỉ là sự cố mới nhất trong một chuỗi dài các hành động leo thang và hiếu chiến của chính quyền Trung Quốc nhằm gây sức ép với các yêu sách của họ ở Biển Đông và các nơi khác. Nó chắc chắn sẽ không phải là cuối cùng.
Thật khó tin vào thời điểm hiện tại, nhưng cách đây không lâu, Trung Quốc được coi là hạt nhân cho hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, Bắc Kinh đã tích cực tham gia vào một “chiến dịch nụ cười” trong khu vực nhằm chứng tỏ rằng họ là một bên không đối đầu và chỉ dành riêng cho một “sự trỗi dậy hòa bình”. Trung Quốc đã tìm cách trấn an các nước láng giềng rằng họ là một đối tác có trách nhiệm và mang tính xây dựng, ít nhiều cam kết duy trì hiện trạng khu vực.
Năm 2004, Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế đã lưu ý rằng Trung Quốc sẵn sàng “gác lại các tranh chấp chính trị đang diễn ra” mà không thể “hòa giải ngay lập tức, miễn là không bên nào khác có liên quan [làm xáo trộn] hiện trạng”, đặc biệt là tình trạng của Đài Loan ; thay vào đó, Trung Quốc đã sẵn sàng tái tập trung “năng lượng của mình vào việc mở rộng thương mại và hợp tác với tất cả các nước láng giềng”.
Có lẽ không ở đâu chiến lược “chơi đẹp” này lại rõ ràng hơn trong quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Trung Quốc là quốc gia ngoài Đông Nam Á đầu tiên ký Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác với ASEAN. Thỏa thuận này được nối tiếp với quan hệ Đối tác Chiến lược ASEAN-Trung Quốc vì Hòa bình và An ninh và một thỏa thuận “Kế hoạch Hành động”. Trung Quốc đã trở thành một bên tham gia tích cực vào Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Chính sách An ninh ARF (ASPC) và các cuộc họp ASEAN + 3.
Trong suốt những năm 2000, Bắc kinh đã nỗ lực phối hợp không để tranh chấp Biển Đông trở thành tâm điểm quốc tế. Năm 2002, Bắc Kinh và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã đồng ý ra “Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông”, khẳng định ý định của các bên ký kết là giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán của họ, và thực hiện quyền tự kiềm chế ở Biển Đông sẽ “làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng đến hòa bình và ổn định”, bao gồm cả việc hạn chế xây dựng thêm trên các đảo không có người ở.
Tua tới 15 năm hoặc lâu hơn. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã mở ra một quá trình hành động tích cực – “giấc mơ Trung Quốc” – được khơi dậy bởi chủ nghĩa dân tộc và cảm giác nạn nhân, được kích hoạt bởi sự phát triển kinh tế và công nghệ ngày càng tăng, đồng thời nhấn mạnh “sự hồi sinh của đất nước Trung Quốc”.
Tất cả những điều này rất quen thuộc với hầu hết chúng ta. Bắc Kinh ngày càng trở nên cứng rắn và mạnh mẽ hơn trong việc thúc đẩy các yêu sách lãnh thổ của mình, đặc biệt là ở Biển Đông. Theo Bắc Kinh ngày nay, không có “tranh chấp”, bởi vì Trung Quốc có “chủ quyền không thể chối cãi” trên Biển Đông, rõ ràng và đơn giản. Nó đưa ra các lập luận suy đoán về việc các ngư dân Trung Quốc nhìn thấy quần đảo Trường Sa trong lịch sử, hoặc phát hiện ra các mảnh gốm hoặc tiền xu Trung Quốc trên một số đảo nhỏ này. Sau đó, nó cáo buộc các quốc gia khác, chẳng hạn như Philippines, “bắt nạt” Trung Quốc, và rằng Hoa Kỳ và các lực lượng hải quân phương Tây khác, bằng cách thực hiện các cuộc tuần tra tự do hàng hải (FONOPS) ở Biển Đông, đang hoạt động ở những nơi mà họ không có quyền. được. Gần đây hơn,
Hơn nữa, Bắc Kinh sử dụng ngôn ngữ ngày càng hiếu chiến hơn. Một bài báo gần đây trên tờ báo tiếng Anh của nhà nước Trung Quốc, Global Times, đã gay gắt công kích Australia là “quá yếu để trở thành một đối thủ xứng tầm của Trung Quốc”, nói thêm rằng nếu nước này dám “can thiệp vào một cuộc xung đột quân sự, chẳng hạn ở eo biển Đài Loan, Úc sẽ là một trong những lực lượng đầu tiên bị tấn công”.
Đặc biệt, Australia đã “nằm trong tầm bắn” của các tên lửa đạn đạo tầm trung của Trung Quốc, và nước này “không được nghĩ rằng mình có thể trốn khỏi Trung Quốc nếu có hành động khiêu khích”.
Tội ác lớn của Úc là gì? Rằng họ đã có đủ dũng khí để tham gia cùng với Hoa Kỳ, Pháp và Nhật Bản trong một loạt các cuộc tập trận hải quân ở Biển Hoa Đông.
Trớ trêu thay, Úc đã mất nhiều năm cố gắng để có được mặt tốt của Bắc Kinh. Đặc biệt, cựu Thủ tướng Kevin Rudd đã quảng cáo về việc thành lập một “Cộng đồng Châu Á – Thái Bình Dương” sẽ nâng tầm đáng kể của Trung Quốc trong khu vực.
Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2018, quan hệ giữa hai nước trở nên xấu đi do lo ngại ngày càng tăng rằng Trung Quốc đang cố gắng ngăn cản quyền tự do ngôn luận trong các trường đại học và chính phủ Úc, và đặc biệt là trong cộng đồng người Hoa ở Úc. Ngoài ra, với lý do lo ngại về an ninh, Canberra đã cấm các công ty Trung Quốc như Huawei đầu tư vào các lĩnh vực chiến lược như mạng 5G của Australia. Để trả đũa, Trung Quốc đã áp dụng các lệnh cấm thương mại và thuế quan trị giá hơn 20 tỷ USD đối với hàng hóa xuất khẩu của Australia.
Điều mà Bắc Kinh không nhận ra là hành vi gây hấn này chỉ đang tạo ra phản ứng dữ dội thống nhất hơn. Đặc biệt, các cuộc tập trận hải quân trong khu vực năm nay dự kiến không chỉ có Mỹ và Australia, mà còn có Canada, Pháp, Singapore, Nhật Bản, New Zealand, Malaysia, Ấn Độ và Hà Lan. Ngoài ra, Hải quân Hoàng gia Anh đang cử Nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm MS Elizabeth đến khu vực này.
Hiện các hành động bá quyền của Trung Quốc đã khiến cảm chống lại họ gia tăng trên toàn cầu. Thái độ tiêu cực đối với Trung Quốc đã tăng vọt và tỷ lệ người Mỹ coi Trung Quốc là kẻ thù lớn nhất của họ đã tăng gấp đôi trong năm qua. Châu Âu, trong nhiều thập kỷ đã cố gắng lôi kéo Trung Quốc vì lợi ích kinh tế, đồng thời phớt lờ hoặc hạ thấp hành vi hung hăng ngày càng gia tăng của họ, gần đây đã nhận ra rằng Trung Quốc là mối đe dọa ngày càng tăng đối với sự ổn định và an ninh toàn cầu.