Trò chơi chiến lược Mỹ-Trung ở Nam Thái Bình Dương xung quanh thỏa thuận an ninh được ký kết bởi Quần đảo Solomon và Trung Quốc đang ngày càng trở nên khốc liệt.
Ngày 18/4, Toà Bạch Ốc cho biết ông Kurt Campbell, điều phối viên của Hội đồng An ninh Quốc gia về các vấn đề Ấn Độ – Thái Bình Dương và ông Daniel Kritenbrink, quan chức hàng đầu của Bộ Ngoại giao về các vấn đề Châu Á – Thái Bình Dương, sẽ đến thăm Quần đảo Solomon, Fiji và Papua New Guinea vào tuần này. Chuyến thăm cấp cao hiếm hoi này cho thấy mức độ khốc liệt chưa từng có của trò chơi chiến lược Mỹ-Trung ở Nam Thái Bình Dương xung quanh thỏa thuận an ninh được ký kết bởi Quần đảo Solomon và Trung Quốc, mở ra cánh cửa cho Trung Quốc thiết lập các căn cứ quân sự ở Quần đảo Solomon.
Không giống như Nam Đại Tây Dương, Nam Thái Bình Dương có các hòn đảo nhỏ nằm rải rác, và được chia thành ba khu vực quần đảo lớn là Melanesia, Micronesia và Polynesia. Ngoài Úc và New Zealand, có 27 quốc gia và khu vực (14 trong số đó là các quốc gia có chủ quyền độc lập) có nền kinh tế kém phát triển, được gọi là các quốc đảo Nam Thái Bình Dương trong bài viết này.
Nói chung, quốc đảo Nam Thái Bình Dương có hai đặc điểm lớn. Thứ nhất, là trung tâm giao thông kết nối Châu Á với Bắc và Nam Mỹ, nó có một vị trí chiến lược quan trọng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các trận hải chiến Mỹ-Nhật ở Thái Bình Dương chủ yếu diễn ra ở khu vực này. Giờ đây, Hoa Kỳ coi các quốc đảo Nam Thái Bình Dương là “quân cờ” để chặn ĐCSTQ ở bên ngoài chuỗi đảo thứ nhất. Thứ hai, “đảo nhỏ, đại dương lớn”. Các đảo ở Nam Thái Bình Dương là những quốc gia nhỏ, ít dân, với tổng diện tích đất liền chỉ 550.000 km vuông và tổng dân số hơn 7,5 triệu người (trong đó Papua New Guinea là quốc gia lớn nhất, với diện tích đất liền là 452.800 km vuông với dân số 7,3 triệu người). Tuy nhiên, vùng biển rất rộng lớn, vùng đặc quyền kinh tế của các quốc đảo và vùng lãnh thổ hải đảo có tổng diện tích 28 triệu km vuông, hơn một nửa diện tích Âu-Á, giàu tài nguyên thủy sản và khoáng sản.
Trong hai thập niên qua, ĐCSTQ đã mở rộng tham vọng toàn cầu và dần dần tăng cường hoạt động ở các đảo Nam Thái Bình Dương, trở thành một phần quan trọng trong bố cục ngoại vi quy mô lớn, phản ánh ba mưu đồ chính trị, ngoại giao, quân sự và kinh tế, được mô tả ngắn gọn dưới đây.
Mưu đồ chính trị và ngoại giao
Ngày 7/3, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị cho biết, chúng ta luôn dành sự quan tâm và ủng hộ đặc biệt đối với các quốc đảo nhỏ như các nước Nam Thái Bình Dương. Đối với ĐCSTQ, có hai khía cạnh quan trọng nhất.
Đầu tiên, ngăn chặn ngoại giao quốc tế của Đài Loan. Tính đến tháng 12 năm 2019, chỉ có 15 quốc gia mà Đài Loan có quan hệ ngoại giao, bốn trong số đó là các quốc đảo Nam Thái Bình Dương. Vào tháng 9 năm 2019, Quần đảo Solomon và Kiribati liên tiếp cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan và chuyển sang ĐCSTQ; đồng thời, trên danh nghĩa văn phòng đại diện của Đài Loan tại Fiji, một đồng minh ngoại giao của châu Phi, “Trung Hoa Dân Quốc” ban đầu buộc phải đổi thành “Đài Bắc”, được gọi là cuộc khủng hoảng ngoại giao năm 2019 của Đài Loan. ĐCSTQ dự định “xóa sổ” quan hệ ngoại giao của Đài Loan, và chắc chắn sẽ tăng cường cạnh tranh ngoại giao với Đài Loan ở Nam Thái Bình Dương trong tương lai.
Thứ hai, giành được sự ủng hộ của quốc tế. Để chống lại các nước phương Tây tự do, ĐCSTQ từ lâu đã lôi kéo và ép buộc một số nước, chia rẽ cộng đồng quốc tế về một số vấn đề lớn. Ví dụ, trong làn sóng tẩy chay Thế vận hội mùa đông Bắc Kinh, ĐCSTQ đã lôi kéo một số quốc đảo Nam Thái Bình Dương ủng hộ nó, chẳng hạn như Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các Đảo Thái Bình Dương đầu tiên của Trung Quốc vào tháng 10 năm 2021. Các quốc đảo Nam Thái Bình Dương vốn thiết lập quan hệ ngoại giao với ĐCSTQ đã bày tỏ rõ ràng sự ủng hộ đối với Thế vận hội Mùa đông Bắc Kinh 2022 và Thế vận hội Mùa đông.
Mưu đồ quân sự
Với sự toàn cầu hóa trong cuộc đối đầu Trung-Mỹ, ĐCSTQ đang đẩy nhanh việc xây dựng một “cường quốc hàng hải” và “hải quân biển xanh”, dưới con mắt của ĐCSTQ, giá trị an ninh của các quốc đảo ở Nam Thái Bình Dương đã được cải thiện rất nhiều. Về các lợi ích an ninh quân sự cụ thể có liên quan, chủ yếu là bảo đảm an ninh tiếp tế cho lực lượng hải quân viễn dương của ĐCSTQ. Nếu ĐCSTQ muốn trở thành cường quốc quân sự toàn cầu thì phải giải quyết vấn đề kho tiếp liệu cho hải quân viễn dương, và hợp tác với các quốc đảo Nam Thái Bình Dương đã trở thành chìa khóa để giải quyết vấn đề này.
Nhưng ngoài điều này, còn có một âm mưu sâu xa hơn. Nếu ĐCSTQ muốn đối đầu với Hoa Kỳ, điều quan trọng nhất là thiết lập trạng thái cân bằng hạt nhân với Hoa Kỳ ở một mức độ nhất định. Làm thế nào để thiết lập điều này? Xét về bộ ba vũ khí hạt nhân, trên bộ (bao gồm hầm chứa tên lửa cố định và phương tiện phóng di động) là không đáng tin cậy, bởi vì Trung Quốc và Hoa Kỳ cách nhau hàng nghìn km, và phải mất hàng chục phút để tên lửa của ĐCSTQ có thể bắn trúng Hoa Kỳ, giúp quân đội Hoa Kỳ có thời gian lớn hơn để đánh chặn. Căn cứ không quân là không đáng kể (ĐCSTQ hiện nay không có máy bay ném bom chiến lược xuyên lục địa), và nó chỉ có thể dựa vào các tàu ngầm hạt nhân chiến lược.
Để bảo đảm an toàn cho các tàu ngầm hạt nhân chiến lược, ĐCSTQ đã trắng trợn quân sự hóa Biển Đông và biến Biển Đông thành một “vùng biển pháo đài” (vì Biển Đông rộng khoảng 3,5 triệu km vuông, độ sâu nước trung bình ở khu vực trung tâm là khoảng 4.000 mét, so với độ sâu trung bình của biển Bột Hải là khoảng 18 mét, Hoàng Hải là 44 mét, và Biển Hoa Đông rộng hơn 700.000 km vuông, với độ sâu nước trung bình khoảng 1.000 mét). Tuy nhiên, Biển Đông vẫn còn cách rất xa Hoa Kỳ. Để ĐCSTQ thực hiện hiệu quả răn đe hạt nhân chống lại Hoa Kỳ, bao gồm cả các cuộc tấn công hạt nhân, ĐCSTQ cần phải “tiến gần” hơn, và khu vực tốt nhất để “tiến sát” Hoa Kỳ là ở Nam Thái Bình Dương. Điều này đã trở thành mối quan tâm lớn đối với Hoa Kỳ, do đó, một mặt Hoa Kỳ tăng cường phòng thủ ba chuỗi đảo và giám sát chặt chẽ bốn lối đi chính của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc từ Biển Đông đến Nam Thái Bình Dương. Mặt khác, ngăn chặn triệt để việc ĐCSTQ thiết lập các căn cứ quân sự ở các quốc đảo Nam Thái Bình Dương. Trò chơi chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở Nam Thái Bình Dương vì vậy có một ý nghĩa đặc biệt.
Mưu đồ kinh tế
ĐCSTQ từ lâu đã thâm nhập vào các quốc đảo Nam Thái Bình Dương dưới ngọn cờ viện trợ kinh tế. Vào tháng 4 năm 2006, cuộc họp cấp bộ trưởng đầu tiên của Diễn đàn hợp tác và phát triển kinh tế các quốc đảo Trung Quốc – Thái Bình Dương đã được tổ chức theo sáng kiến của ĐCSTQ và hai bên đã thiết lập “quan hệ đối tác kinh tế và thương mại”. Thủ tướng Trung Quốc khi đó nói rằng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các quốc đảo Thái Bình Dương không phải là biện pháp ngoại giao khẩn cấp của ĐCSTQ, mà là một quyết định chiến lược. ĐCSTQ sẽ cung cấp cho một số quốc đảo Thái Bình Dương các khoản vay ưu đãi trị giá 3 tỷ nhân dân tệ trong vòng 3 năm để thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp hai bên trong các lĩnh vực phát triển tài nguyên, nông lâm ngư nghiệp, du lịch, sản xuất dệt may, viễn thông và vận tải hàng không. Thiết lập các quỹ đặc biệt để khuyến khích các công ty Trung Quốc đầu tư vào các quốc đảo Thái Bình Dương. Xoá tất cả các khoản nợ đến hạn cuối năm 2005 ở hai quốc gia nghèo của Nam Thái Bình Dương là Samoa và Vanuatu, cùng nhiều thứ khác.
Vào tháng 11 năm 2014, Chủ tịch ĐCSTQ đã có chuyến thăm cấp nhà nước đầu tiên tới các quốc đảo Thái Bình Dương và tổ chức hội nghị cấp cao tập thể đầu tiên với tám quốc đảo đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào thời điểm đó nhằm thiết lập “quan hệ đối tác chiến lược”. Hội nghị thượng đỉnh tập thể lần thứ hai được tổ chức tại Papua New Guinea vào tháng 11/2018, nâng mối quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”. Vào tháng 6 năm 2017, “Sáng kiến Vành đai và Con đường xây dựng khái niệm hợp tác hàng hải” đã chỉ ra rằng “chúng tôi sẽ xây dựng một hành lang kinh tế xanh Trung Quốc-Châu Đại Dương-Nam Thái Bình Dương thông qua Biển Đông ở phía nam vào Thái Bình Dương”. ĐCSTQ đã ký hiệp định “Vành đai và Con đường” với 11 quốc đảo bao gồm Papua New Guinea và Fiji.
Thông qua thương mại (năm 2020, kim ngạch thương mại hàng hóa giữa Trung Quốc và các quốc đảo Thái Bình Dương là 9,04 tỷ USD, vượt xa Hoa Kỳ), nợ (ví dụ, Samoa, có dân số dưới 200.000 người, nợ Trung Quốc 160 triệu USD, chiếm khoảng 40% tổng nợ nước ngoài của nước này), viện trợ (chỉ đứng sau Úc và cao hơn Hoa Kỳ), hợp đồng dự án (tổng số hợp đồng ký đến cuối năm 2020 lên tới 18,4 tỷ USD), du lịch và các phương thức khác đã hình thành ảnh hưởng nhất định đến các quốc đảo Nam Thái Bình Dương.
Phần kết
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, tầm quan trọng của các quốc đảo Nam Thái Bình Dương trong chiến lược quốc tế của Hoa Kỳ đã giảm sút trong một thời gian. Úc, nhà tài trợ lớn nhất cho các quốc đảo Nam Thái Bình Dương, cũng đã cắt giảm đáng kể viện trợ cho các quốc đảo Nam Thái Bình Dương, với số tiền viện trợ giảm mạnh từ 1,25 tỷ USD năm 2011 xuống còn dưới 800 triệu USD năm 2016. Tuy nhiên, với sự phá sản của chính sách xoa dịu phương Tây và sự tăng cường bành trướng của ĐCSTQ ở Nam Thái Bình Dương, giá trị chiến lược của Nam Thái Bình Dương đã được nhận thức lại kể từ thời chính quyền Trump. Trong quá trình phát triển từ “chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương” thành “chiến lược Ấn Độ – Thái Bình Dương” (Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Ấn Độ – Thái Bình Dương vào tháng 5/2018), vị trí chiến lược của các quốc đảo Nam Thái Bình Dương đã tăng lên đáng kể.
Chính quyền Trump cho biết, “Chúng tôi sẽ kích hoạt (phục hồi) sự tham gia của chúng tôi với các đảo ở Thái Bình Dương để duy trì sự tự do và cởi mở của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, giữ cho các tuyến đường vận tải thông thoáng và nâng cao vị thế của chúng tôi với tư cách là đối tác an ninh với các quốc đảo”. Vào tháng 2, chính quyền Biden đã công bố Chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, trong đó nêu rõ rằng “khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang đối mặt với ngày càng nhiều thách thức từ Trung Quốc, và để đáp trả, Hoa Kỳ sẽ tăng cường quan hệ đối tác với các quốc đảo Thái Bình Dương”. Đồng thời, Úc cũng đang theo dõi, “Sách Trắng về Chính sách Đối ngoại 2017” đề xuất chính sách “Nâng tầm”, bao gồm tăng cường hợp tác kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực, giải quyết các thách thức an ninh, tăng cường trao đổi nhân sự, giáo dục và đào tạo, xây dựng năng lực lãnh đạo và tăng cường phát triển, tăng cường khả năng phục hồi phát triển và ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai, đánh dấu sự hoàn thành và điều chỉnh theo từng giai đoạn đối với chính sách Nam Thái Bình Dương. Nhật Bản và Ấn Độ cũng đang điều chỉnh và gia tăng các chính sách và nỗ lực của họ đối với các quốc đảo Nam Thái Bình Dương.
Bốn nước Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ có lợi thế về tự nhiên ở khu vực Nam Thái Bình Dương, sự hợp tác của bốn quốc gia này cùng với sự phối hợp của New Zealand, Anh và Pháp,v.v., nhất định sẽ cạnh tranh quyết liệt với ĐCSTQ. Cuộc chiến ngoại giao hiện tại về thỏa thuận an ninh ban đầu của Quần đảo Solomon với Trung Quốc mới chỉ là khởi đầu. Xét về sức mạnh tổng thể, ĐCSTQ đang ở thế yếu. Các kế hoạch của ĐCSTQ đối với Nam Thái Bình Dương có thể bị thất bại nghiêm trọng.