Chuyến thăm Mỹ của ông Chính – Thấy vậy mà không phải vậy

Nguyễn Đình Đăng

2022.05.14

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken tại Washington DC hôm 13/5/2022. Photo: RFA

Báo chí Việt Nam mấy ngày nay rầm rộ đưa tin về chuyến sang Mỹ của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Các tờ báo chính thống ra sức quảng bá cho chuyến thăm Mỹ của ông Chính.

Điều đáng chú ý là cách các tờ báo Việt Nam đưa tin về chuyến thăm của ông Chính giống như đây là chuyến viếng thăm song phương Việt – Mỹ. Thậm chí tờ báo mạng của Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) lúc đầu còn đưa bài với cái tựa là “Thủ tướng gặp song phương với Tổng thống Biden”, nhưng ngay sau đó đã phải thay một tựa bài khác (1).

Chuyến thăm Mỹ của ông Chính là để phục vụ cho cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN – Mỹ từ ngày 12-13/5. Đây cũng là chuyến thăm Mỹ đầu tiên của ông Chính dưới cương vị Thủ tướng. Trước chuyến đi của ông Chính, cũng có một số đồn đoán cho rằng kỳ này, Việt – Mỹ sẽ nâng cấp quan hệ.

Tuy nhiên, trong nghị trình của cuộc họp thượng đỉnh kỳ này, không có cuộc gặp song phương nào, và quan hệ Việt – Mỹ vẫn chưa có bước đột phá mới nào.

Ai thiếu sự chân thành?

Trong bài phát biểu của ông Chính tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế (CSIS), ông ta có cho rằng: “Sự chân thành, lòng tin và trách nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng để giải quyết những vấn đề đặt ra đối với thế giới hiện nay. Chính sự thiếu vắng sự chân thành, lòng tin và trách nhiệm là một trong những nguyên nhân dẫn đến căng thẳng, xung đột ở nhiều khu vực. Thiếu sự chân thành, tin cậy là nhân tố cản trở nghiêm trọng đến hợp tác song phương giữa các quốc gia cũng như hợp tác đối phó với các thách thức khu vực và toàn cầu.” (2)

Trong một bài viết trên tờ Foreign Policy, Brian Eyler – Giám đốc chương trình Mekong Dam Monitor viết rằng: “Việc nâng cấp quan hệ có thể và nên diễn ra vào thời điểm thích hợp. Trên thực tế, mối quan hệ hợp tác hiện nay trong các lĩnh vực an ninh hàng hải cho thấy quan hệ Mỹ-Việt thực chất đã là quan hệ chiến lược. Tuy nhiên, việc vội vã nâng cấp quan hệ trong chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính có thể phản tác dụng.” (3).

Cách lý giải của Brian Eyler cũng tương tự một số quan chức và học giả Việt Nam khi luôn cho rằng Việt Nam cần thực chất hơn là danh xưng.

Tác giả Khang Vu viết trên tờ The Diplomat cho biết có sự “bất bình đẳng” đáng kể trong quan hệ hai quốc gia này, khi mặc dù Mỹ là một siêu cường, còn Việt Nam, tuy là một quốc gia đang lên nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về vị thế chính trị, thế nhưng nhiều quan chức Mỹ tích cực coi Việt Nam là một “chiến địa” tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Phía Mỹ cũng rất thiết tha đề nghị nâng cấp quan hệ hai bên lên tầm cao mới. Trong chuyến thăm năm ngoái của Phó Tổng thống Harris, cũng như quan điểm không hề giấu diếm của Đại sứ Mỹ tại Hà Nội Knapper trong cuộc họp báo đầu tiên dưới cương vị này của ông ta, đều muốn Việt Nam trở thành “đối tác chiến lược toàn diện” của Mỹ. “Tuy nhiên, các phản ứng của Việt Nam đối với đề xuất của Mỹ rất mờ nhạt. Mặc dù hoan nghênh sự tiếp cận của Mỹ, Việt Nam không đồng ý nâng cấp quan hệ thành quan hệ đối tác chiến lược. Harris đã thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam thay đổi quyết định trong chuyến thăm của bà. Đại sứ Việt Nam tại Mỹ mới được bổ nhiệm Nguyễn Quốc Dũng cũng không coi việc củng cố “quan hệ đối tác chiến lược” như một mục tiêu trong nhiệm kỳ của mình. Một số quan chức Việt Nam đã mô tả quan hệ đối tác là quan hệ chiến lược về mọi mặt, ngoại trừ tên gọi và về mặt chính thức, Mỹ không phải là một trong 17 đối tác chiến lược của Việt Nam, xếp sau Australia, Nhật Bản và Ấn Độ, ba nước khác trong Nhóm đối thoại an ninh Bộ tứ.” (4)

Tác giả Khang Vu cũng cho biết thêm: “Mỹ là bên đã nhượng bộ Việt Nam về các vấn đề lớn nhằm cải thiện mối quan hệ song phương tổng thể, bao gồm cả việc phá bỏ nghi thức ngoại giao để tiếp đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Nhà Trắng vào năm 2015 và giữ im lặng khi Việt Nam tiếp tục mua vũ khí của Nga, vốn trái với Đạo luật chống đối thủ của Mỹ thông qua cấm vận. Điều đáng chú ý là Mỹ đã trừng phạt đồng minh hiệp ước của mình là Thổ Nhĩ Kỳ vì đã mua hệ thống tên lửa S-400 của Nga. Tóm lại, Việt Nam dường như đang nắm trong tay con át chủ bài trong quan hệ song phương dẫu cho Mỹ có sức mạnh lớn hơn rất nhiều.” (5)

Một tác giả người Việt khác là Dien Luong thì đưa ra lý giải rằng, trong chính trường Việt Nam có phe bảo thủ và phe cấp tiến. “Phe bảo thủ đã nói xấu về mối đe dọa của một “diễn biến hòa bình”, ám chỉ đến sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với những người bất đồng chính kiến ủng hộ dân chủ và đề cao các giá trị nhân quyền nhằm phá hoại hoặc thậm chí lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam, để gieo rắc nghi ngờ về mối quan hệ chặt chẽ hơn với Washington.

Sự ngờ vực đó đã làm lan rộng suy nghĩ của những người cứng rắn với Việt Nam đến mức họ có thể đàm phán khó khăn và làm thất bại tiến độ của một hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ cho đến năm 2000.” (6). Theo ý kiến của tác giả Dien Luong thì “Mỹ cần cố gắng nhiều hơn để được lòng phe bảo thủ Việt Nam.”

Như vậy thì “sự chân thành” trong phát biểu của ông Phạm Minh Chính dường như chỉ là một thông điệp “sáo rỗng”.

enable JavaScript if it is disabled in your browser.

Lời nói trái ngược hành động

Ông Chính cũng phát biểu hùng hồn rằng:

“Thứ hai, giữa độc lập và phụ thuộc, chúng tôi luôn chọn độc lập với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; giữa thương lượng và đối đầu, chúng tôi chọn thương lượng; giữa đối thoại và xung đột, chúng tôi chọn đối thoại; giữa hòa bình và chiến tranh, chúng tôi chọn hòa bình; giữa hợp tác và cạnh tranh, chúng tôi chọn hợp tác và nếu cạnh tranh thì phải lành mạnh, bình đẳng, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhau.” (7)

Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng, việc Việt Nam né tránh việc nâng cấp quan hệ với Mỹ là do e ngại việc kích động Trung Quốc sẽ gia tăng sự đe doạ với Việt Nam. Thế nhưng, đây cũng chỉ là một phần của vấn đề. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cũng đều duy trì quan hệ tốt đẹp với cả Mỹ và Trung Quốc mà đâu có sao, Singapore là một ví dụ điển hình.

Người ta còn nhớ chuyến thăm của bà Harris sang Việt Nam, đường đường là một Phó Tổng thống của một siêu cường nhưng người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (thực chất là nguyên thủ trong thực tế ở Việt Nam là ông Nguyễn Phú Trọng) đã né tránh không tiếp đón bà Harris, trong khi trước khi bà Harris tới Việt Nam, ông Phạm Minh Chính lại chủ động đến gặp Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Hùng Ba để “báo cáo tình hình của chuyến thăm”.

Chính vì cách cư xử của Việt Nam như vậy đã dẫn tới việc trong chuyến viếng thăm trụ sở Liên Hợp Quốc vào năm ngoái của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, các nguồn thạo tin cho biết, phía Việt Nam đã nỗ lực tìm kiếm một cuộc gặp song phương giữa hai nguyên thủ Việt – Mỹ, nhưng phía Mỹ đã lạnh lùng từ chối với lý do “đề phòng COVID 19”.

Ông Phạm Minh Chính cũng khẳng định: “Trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng.”

Tuy nói vậy, nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn từ chối lên án cuộc tấn công của Nga vào Ukraine. Việt Nam đã bỏ hai phiếu trắng ở tất cả các cuộc bỏ phiếu của Liên hợp quốc về vấn đề này và nhiều khả năng sẽ không ủng hộ các biện pháp trừng phạt đối với Moscow. Việt Nam cũng bỏ phiếu chống lại việc đình chỉ Nga tại Hội đồng Nhân quyền của LHQ, mặc dù các phát biểu của Việt Nam ám chỉ việc Nga tấn công Ukraine là vi phạm Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.

Cách hành xử như vừa qua của Việt Nam cho thấy, chính sách đối ngoại của nước này dường như là cố gắng “tận dụng” tối đa các lợi ích kinh tế từ Mỹ, trong khi đó lại tiếp tục duy trì và bảo toàn nguyên vẹn các mối quan hệ truyền thống với Nga và Trung Quốc.

Việt Nam luôn tự hào khi cho rằng chính sách đối ngoại của họ là nhất quán và được hoạch định từ rất lâu, điều này cho thấy không hẳn như suy nghĩ của tác giả Dien Luong, khi cho rằng có phe cấp tiến và phe bảo thủ trong hàng ngũ các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam. Mà đúng ra phải nói là toàn bộ Bộ Chính trị Việt Nam đều có quan điểm giống nhau trong các quan hệ với Mỹ và Trung Quốc, Nga. Chính vì vậy, việc phát triển quan hệ Việt – Mỹ trong tương lai sẽ khó có sự đột phá. Mặc dù có tiến triển, nhưng hết sức chậm chạp. Và có khi như một câu ngạn ngữ của phương Tây nhắc rằng “Ai chậm chân thì lỡ tàu”.

_________

Tham khảo:

1. https://vov.vn/chinh-tri/lanh-dao-viet-nam-hoa-ky-ton-trong-doc-lap-chu-quyen-the-che-chinh-tri-cua-nhau-post943532.vov

2. https://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-thu-tuong-pham-minh-chinh-tai-csis-hoa-ky/789684.vnp

3. https://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-thu-tuong-pham-minh-chinh-tai-csis-hoa-ky/789684.vnp

4. https://thediplomat.com/2022/04/why-vietnam-holds-the-trump-card-in-the-u-s-vietnam-partnership/

5. https://thediplomat.com/2022/04/why-vietnam-holds-the-trump-card-in-the-u-s-vietnam-partnership/

6. https://asia.nikkei.com/Opinion/U.S.-will-have-to-work-hard-to-win-over-Vietnam-s-conservatives

7. https://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-phat-bieu-cua-thu-tuong-pham-minh-chinh-tai-csis-hoa-ky/789684.vnp

N.Đ.Đ.

Related posts