Thu Tuyết
Trời đổ mưa chiều, những hạt mưa không lớn nhưng cái lạnh giữa đông làm tâm hồn tôi se lại. Có phải ngẫu nhiên khi có nhiều cái chết liên quan đến vụ án Bưu điện Cầu Voi với lý do: “Tai nạn giao thông và đột tử”! Chưa nói đến những vụ án khác như té từ lầu cao của một số quan chức cao cấp, những cái chết đột ngột này đã khơi lại trong tôi một câu chuyện buồn của gia đình.
***
Bây giờ ba tôi không còn nữa, Mẹ tôi cũng đã ra đi chỉ còn lại trong tôi một ký ức về tuổi thơ. Những buồn vui như những gợn lăn tăn của sóng phủ dài trên lối đi thánh thiện. Thời gian như vạt nắng chiều nhẹ nhàng tan biến để trả lại bóng đêm tĩnh lặng với trời sao, với tiếng gọi của không gian sâu thẳm màu cuộc đời.
Biến cố 1975, mọi việc thay đổi. Gia đình tôi trở về làng quê, một ngôi làng xinh xắn có luỹ tre bao quanh bởi cánh đồng lúa mênh mông yên bình cùng những kỷ niệm của thời thơ ấu. Tuy nhiên, làng tôi hôm nay không như ngày xưa tôi còn bé; bởi tiếng kẻng, tiếng điểm danh người lao động ra đồng vào mỗi sáng, và đánh giá phê bình thành tích vào mỗi chiều. Hầu như mọi thứ là của tập thể.
Hai người anh tôi đi học tập cải tạo, chị tôi mất việc làm, anh kế tôi bị cho thôi học vì lý lịch xấu. Tôi và hai em vẫn ở lại thị xã để tiếp tục việc học (vì chúng tôi ở bậc trung học nên còn được ngồi lại ghế nhà trường), một phần vì gia đình tôi không ai được phép bỏ học nửa chừng.
Tôi học không tệ, nếu không nói là xuất sắc thì cũng kế người xuất sắc. Tôi tham gia mọi sinh hoạt của trường lớp, nhưng không được cho vào hội đoàn lúc bấy giờ (vì điều này có ảnh hưởng tới việc học tiếp sau đó), lý do: không đủ tiêu chuẩn. Tôi ngơ ngác như con nai lạc bầy, nhưng vẫn ngây thơ chờ đợi một sự công bằng.
Vào một sáng trong sân trường rợp hoa phượng, chúng tôi xếp hàng ngay ngắn để nghe thầy cô có đôi lời trước khi kết thúc một niên khoá và phát thưởng cho những học sinh xuất sắc. Tôi hồi hộp chờ đến tên mình để lên nhận phần thưởng của năm cuối cùng ở bậc phổ thông. Nhưng phần thưởng ấy được trao cho bạn lớp phó học tập với thứ hạng không nằm trong số 3 người đứng đầu lớp!
Tôi buồn bã thất thểu về nhà ngồi khóc, khóc như cô Tấm mồ côi bên thềm giếng khi bị mất con bống, khóc như đứa trẻ bị tước lấy cây kem vào một trưa hè nóng rực và khóc vì sự rạn nứt của một tâm hồn còn lóng lánh pha lê. Mãi đến 30 năm sau, tôi mới biết lý do: “Con nhà ngụỵ làm gì có thưởng!”. Đó là lời phát biểu của cô giáo chủ nhiệm, người từ phía Bắc vào để “cải tạo” giáo dục. Tôi nào biết đó chỉ là một bắt đầu cho những sóng gió đời mình.
Rồi chuyện đó cũng qua, tôi nộp đơn để thi vào một trường Đại học với bao náo nức của tuổi đầu đời. Ngày thi, tôi được gia đình, người thân và bạn bè chăm sóc chu đáo với kỳ vọng tôi sẽ đạt kết quả tốt. Nhưng điều ấy không xảy ra. Bạn bè tôi lần lượt vào trường nhập học. Tất cả đều có giấy báo điểm kể cả thi rớt, nhưng với tôi thì biệt tin. Tôi vẫn tiếp tục đợi chờ cho dẫu mong manh. Phải chăng Thượng đế bắt tôi thực tập bài học này vì Ngài biết rằng tôi sẽ còn “nhiều cơ hội” để đợi chờ.
Gia đình tôi luôn sống trong tình trạng căng thẳng. Ba tôi suốt ngày lo viết đơn khiếu nại để đòi lại sự công bằng cho chúng tôi được đi học. Giai đoạn đó có được tiếp tục học hay không là nhờ vào lý lịch. Mẹ tôi bỏ rất nhiều thời gian để chăm sóc ba tôi, nhưng càng ngày ông càng yếu thêm vì những lo âu.
Sau năm 1975, chính quyền địa phương đưa ba tôi vào một nơi để giữ những thứ họ thu được của những người di tản từ các tỉnh miền trung và cao nguyên vào Nam. Lúc ấy tôi ngạc nhiên vì chứng kiến sự bắt bớ và tịch thu tài sản. Việc bắt người tôi có thể hiểu, nhưng lấy tài sản của những người dân vô tội thì vẫn là một dấu hỏi trong tôi.
Bản chất ngay thẳng và trung thực cùng những hiểu biết về lý thuyết của giai đoạn 1945 -1954; ba tôi là người duy nhất không dính vào vụ tham ô tài sản đang thu giữ. Ông cũng là người biết rõ việc bê bối của họ (một số người nòng cốt trong chính quyền địa phương và các cấp lãnh đạo cao hơn). Vì vậy, để sự chia chác được suôn sẻ và tránh hậu hoạ về sau, họ đã gán ghép ba tôi rất nhiều tội lỗi, truất quyền công dân (không được bầu cử) và buộc ông đi học tập cải tạo. Với sức khoẻ yếu, ba tôi sẽ chết trong tù. Đó là mục tiêu họ muốn.
Tuy nhiên, may mắn cho gia đình tôi là đã xuất hiện một vị cứu tinh, một người liêm chính còn sót lại trong hệ thống chính quyền lúc bấy giờ đã điều tra sự việc. Cuối cùng hai trong số bọn họ bị bắt giam và 3 ngày nữa vụ khiếu kiện này sẽ được đưa ra xét xử.
Suốt nhiều năm, gia đình tôi luôn bị canh giữ ngày đêm bởi những người được gọi là “du kích”. Thời gian gần xét xử, họ “canh gác” ba tôi kỹ hơn cùng những lời hăm doạ. Chúng tôi đã luôn sống trong nỗi lo âu, sợ hãi. Tôi khóc nhiều vì chứng kiến sự bất công, vì bị đàn áp và vì không thực hiện được ước mơ đơn giản nhất là được học.
Vào một sớm đầu mùa hạ, tôi mang ba lô lên rừng để lao động (lao động và sinh hoạt văn hoá là việc bắt buộc của thanh niên lúc ấy). Mặt trời chưa lên, hàng cây còn lặng gió, vài con bồ câu mẹ dậy sớm để tìm mồi. Chúng chạy lúp xúp trong sân, quanh quẩn chỗ ba tôi ngồi để chờ những hạt thóc; bởi ông thường cho chúng ăn vào mỗi sáng, chiều. Ba tôi ngồi ở bậc thềm nhà nhìn tôi với đôi mắt buồn sâu thẳm. Ánh mắt ấy nằm sâu trong ký ức và mãi mãi tôi không quên. Tôi chào ba để ra đi nào biết rằng đây là lần vĩnh biệt!
Con đường lên vùng kinh tế mới, một vùng miền núi, hun hút gió rừng. Những ổ gà ổ voi làm chậm tốc độ chạy xe. Đi được vài giờ, chúng tôi rẽ vào một con đường mòn mà có lẽ chỉ dành cho người dân tộc thiểu số để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. May không là mùa mưa nên chỉ có bụi đường che mờ lối đi. Tôi ngắm nhìn bầu trời xuyên những cành cây kẽ lá và hứng lấy ánh nắng nhạt dần qua bóng râm. Tôi cảm nhận khí trời đầy oxy và nhẹ nhàng hít thở. Tôi quên những gì xảy ra phía sau chỉ biết rằng tôi đang tiến dần đến nơi an toàn nhất – núi rừng. Bởi thiên nhiên không làm tổn thương tôi, thiên nhiên không chất chứa hận thù, không lọc lừa gian dối, không đố kỵ ghen tuông, không rập rình nhà tôi sớm tối và cũng không đòi hỏi lý lịch trong sạch mới được học hành.
Mặc dầu bên đường là hố thẳm, nhưng núi rừng đã che chở chúng tôi suốt chặng đường đi. Thỉnh thoảng bắt gặp những đôi mắt ngơ ngác của lũ trẻ con mặc khố dừng lại bên đường để nhìn con quái vật ồn ào khuấy động không gian yên tĩnh của họ. Một sự xâm nhập không được phép, nhưng vẫn cứ nghênh ngang như sự nghênh ngang chiếm giữ tài sản của người dân vô tội. Đàn chim rừng ríu rít bay ngang, có phải chúng chào đón hay đuổi xua khách lạ? Vài con chồn, con sóc chạy băng qua đường rồi sợ hãi đứng nhìn. Vẫn bụi mịt mù bao phủ chúng tôi khi xe lao qua những chỗ trũng trên đường.
Trời sụp tối, chúng tôi đến một láng trại, nơi dành cho những người đi khai phá thiên nhiên. Đêm núi rừng khủng khiếp làm sao. Chỉ nghe gió gào và tiếng tru tréo của thú dữ. Tôi nằm suy nghĩ miên man về thân phận mình, về gia đình. Ánh mắt ba tôi vẫn nhìn tôi trong đêm tối. Tôi nóng lòng như có điều gì bất ổn, rồi trở mình trong bóng đêm để nghe hơi thở của núi rừng, để tức tưởi với cuộc đời ở tuổi xấp xỉ đôi mươi, cái tuổi đầy đam mê náo nức thực thi những mơ ước đầu đời. Giờ này có lẽ bạn bè tôi đang ngủ say để mỗi sáng mai thức dậy thấy cuộc đời xanh hơn với cỏ cây sân trường, sách vở, thầy cô và bè bạn. Còn tôi, trong đêm đen hoang dại của núi rừng.
“T ơi, thức dậy lấy ba lô đi về” tiếng gọi của anh trưởng đoàn phá tan sự ma quái của màn đêm. Như một linh cảm, có điều gì rất lạ. Tôi bước ra gặp ngay một người bà con đang đứng đợi:
“Mình về, ba em bị tai nạn đang nằm viện”.
“Có nặng không anh?” tôi hỏi.
“Không sao, chỉ gãy chân thôi”, anh đáp ngắn gọn và lạnh lùng.
Chúng tôi quay về trong bóng đen, đen như cuộc đời tôi lúc ấy. Im lặng, anh chở tôi trên chiếc Honda quá cũ. Cũng may nó không nằm lại dọc đường, nếu không đã là mồi ngon cho những con cọp đói. Đầu óc tôi quay cuồng với những ý nghĩ gàn dở. Ba tôi đã vì chúng tôi mà phải bạc đầu đối phó với một thế lực hung tàn của chính quyền địa phương. Nếu ông có mệnh hệ nào, chúng tôi sẽ ra sao? Mẹ tôi một mình tần tảo chỉ đủ để nuôi sống gia đình. Hai anh tôi vừa về từ trại cải tạo phải sống chui rúc như con vật. Anh chị em tôi chưa quen với cuộc sống mới. Áp lực xã hội như những bóng mây che khuất lối đi. Tương lai mờ mịt!
Về đến cổng nhà, tôi thấy mọi người đông đúc, đèn đuốc sáng choang. Có một nhóm người đang đục đẽo: đóng hòm! Tôi nghĩ. Thế là hết, ba tôi bị tai nạn và qua đời! Tôi lững thững bước vào trong. Chị tôi gào lên trong nỗi uất hận: “Em ơi, Ba bị thằng Hải con bà hai Phố bắn chết rồi! Vào đi để nhìn mặt ba lần cuối”. Tôi bước đi trong vô định. Đến bên giường, chiếc giường đơn nơi ba tôi đang ngủ yên, vĩnh viễn. Trên ngực áo còn lại vài vệt máu đã khô. Ôi! Ba tôi! Đôi mắt hiền từ, dáng đi khoan thai, luôn nhân từ và rộng lượng với cuộc đời. Tôi gục xuống bên chiếc giường lạnh lẽo trong tiếng nấc nghẹn ngào, Ba ơi!
Những ngày sau cuối, ba phờ phạc vì thức đêm để suy nghĩ: cách nào đưa ra ánh sáng thế lực tham ô, cách nào lấy lại sự công bằng cho chúng tôi đi học. Ôi! cái lý lịch chết tiệt ấy. Giá mà không phải nó thì giờ này ba tôi đang ung dung với cuộc sống cho dẫu đầy khó khăn phía trước.
Một tháng trước khi bắn, chúng đã rình rập chờ ba tôi ra đường vào ban đêm để thủ tiêu (vì sau bữa cơm chiều, ba tôi thường lui tới nhà một vài người bạn thân). Nhưng có lẽ người lành nên thượng đế đã khiến ông không ra đường vào đêm tối trong thời gian đó. Để hôm nay, lộ diện kẻ hung tàn, một cách trân tráo và dã man. Chúng đến nhà và ngang nhiên bắn ba tôi tại chỗ với lời lẽ hống hách của kẻ có quyền: “Tại sao ông kiện để cậu và anh tôi bị bắt giữ?”.
Sau khi bắn xong, hắn bước ra chĩa súng vào cả nhà tôi đang ngồi ăn sáng: “Đứa nào cử động, tao bắn chết hết”. Rồi hắn leo lên chiếc xe đạp, đạp tới nhà một người đàn bà là hội trưởng hội phụ nữ lúc ấy: “Tôi đã giải quyết xong ông LBN.” hắn nói với bà ta một cách sung sướng và đầy hãnh diện. Xong việc, hắn quay về huyện tiếp tục “sự nghiệp của một tên vệ sĩ bảo vệ ông Bí thư!”.
Khoảng 5 tháng sau đó, chính quyền đưa vụ án giết người công khai ra xét xử. Loa phóng thanh được gắn khắp nơi cho người dân lắng nghe nếu không có thời gian đến xem trực tiếp tại sân vận động của thị xã. Công an dẫn hắn ra với một vẻ mặt thản nhiên, thản nhiên như một cuộc “giao lưu” của người nghệ sĩ với khán giả. Một cuộc xét xử đã được sắp đặt. Hắn nhận tội rằng: tự đi bắn ba tôi mà không ai sai bảo hay bắt buộc. Gia đình tôi biết rất rõ kẻ chủ mưu nên kháng án. Lần xét xử sau tại Toà án Nha Trang (tỉnh Phú Khánh lúc bấy giờ), chỉ vài người trong gia đình tôi tham dự. Hắn vẫn nét mặt thản nhiên, không thay đổi lời khai. Như lần trước, toà cũng tuyên án tử hình. Thế là kết thúc một tấn tuồng mà đằng sau cánh gà là những nụ cười hả hê của kẻ chủ mưu và đồng bọn, đối nghịch là cảnh tang thương của một gia đình!
Ông ngoại tôi thường xuyên lui tới hơn để an ủi mẹ và là chỗ dựa tinh thần cho gia đình tôi. Bằng mọi giá, chúng tôi phải sống, cho dẫu như những con giun oằn lưng chịu đựng. Cứ mỗi ngày qua đi, tôi cảm nhận rõ nét hơn sự suy yếu của một gia đình mồ côi cha. Những khó khăn vật chất không làm tôi gục ngã, nhưng những tổn thương tinh thần đã làm tôi đau đớn. Một tâm hồn pha lê vỡ nát bởi những va đập của trần gian. Tin ai bây giờ?
Tôi vẫn phải tiếp tục những sinh hoạt của địa phương dưới sự quản lý của chính quyền, chỉ khác là gia đình tôi không còn bị rình rập bởi những du kích. Vì có một chút năng khiếu về âm nhạc nên người ta đưa tôi vào một đội văn nghệ. Mang trong lòng đầy mặc cảm của một cô gái không được đi học, của một gia đình suy sụp cả vật chất lẫn tinh thần; tôi làm việc như một người máy. Tôi phải hát, phải làm xướng ngôn viên và còn cả thuyết trình trước hàng ngàn thanh niên những đề tài như: “Tình yêu và hôn nhân trong xã hội mới…”! Thật buồn cười, một cô gái 18 tuổi chưa một lần biết yêu! Vậy mà, như cái gì đó nổi bật của một vùng quê, tôi là tâm điểm tập trung sự chú ý của những tấm lòng đố kỵ, hẹp hòi; nên tiếp tục chịu đựng những vùi dập cuộc đời. Điều này đã ảnh hưởng rất sâu đến cách sống của tôi trong một thời gian dài sau đó. Tôi lại tiếp tục ngơ ngác trước lòng dạ thâm hiểm của con người!
Rồi một ngày mùa đông, bầu trời u ám. Tôi đếm từng giọt mưa rơi trên lá trước hiên nhà. Những cơn gió lạnh rít qua làm tâm hồn tôi thêm tê buốt. “Con ơi, có giấy báo đi học” Mẹ gọi tôi. Có phải đây là sự xoa dịu của chính quyền địa phương vì cái chết của ba tôi?
Tôi vào một trường sư phạm nơi tôi không hề nghĩ đến trước đó. Nhưng để thoát khỏi địa phương, thoát khỏi sự ám ảnh của tang tóc, đau thương; tôi phải đi. Suốt thời gian học tại NhaTrang, một thành phố biển êm ả với rặng dừa xanh và màu nước biếc; tôi chưa đủ bản lĩnh để thoát khỏi những đau buồn. Tôi vẫn bị ám ảnh bởi những bạo tàn của đồng loại đã trút xuống chúng tôi, những con người vô tội. Sự hồn nhiên trong sáng trong tôi không còn nữa. Tôi ít nói và sống thu mình để gặm nhấm nỗi buồn từng ngày tháng ở cái tuổi đẹp nhất của cuộc đời.
Sau khi tốt nghiệp, tôi về một ngôi trường gần nhà được hai năm và hầu như chỉ để làm văn nghệ cho ngành giáo dục. Bởi môn học của tôi đã bị giới hạn theo quy định lúc ấy, học trò chỉ học ngoại ngữ là tiếng Nga mà không phải tiếng Anh. Sau đó, tôi về sống tại Sài Gòn. Đấy là lúc tôi thực hiện được đam mê duy nhất của mình là tiếp tục việc học.
Hai mươi năm sau, tôi quay lại quê nhà trong một chương trình từ thiện cho Hội trẻ em khuyết tật. Từ chuyến đi này, dần dần gặp lại bạn bè, và được biết người bắn ba tôi đã bị tử hình thật sự ngay sau đó! Không như những kẻ chủ mưu trong vụ án đã hứa với hắn và gia đình hắn rằng: “sẽ lo cho hắn đi vượt biên”! Một kế hoạch hoàn hảo. Lần thứ hai, thêm một mạng người, chúng đã giải quyết xong “con tốt”! Phải chăng đây là thói quen giết người để bịt đầu mối của xã hội này?
***
Từ nơi rất xa, tôi vẫn về thăm mộ ba khi có thể. Với tôi, đó là ngôi mộ đẹp nhất, không phải vì nó đồ sộ nguy nga, mà vì nó rực rỡ môt cái hồn: công minh, chính trực và nhân ái. Mỗi lần đốt nén nhang, tôi thầm thì với Người rằng: “Ba ơi, kỷ niệm buồn con đã quên, nhưng những gì đẹp nhất của tuổi ấu thơ nơi đồng nội sẽ mãi mãi theo con đến cuối cuộc đời”.
Melbourne, 7/2020