Nguồn: Hal Brands, “Ukraine and the Contingency of Global Order,” Foreign Affairs, 14/2/2023
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Có thể và có lẽ
Hãy xem xét những ngày đầu đầy hỗn loạn của cuộc chiến, khi Ukraine lâm vào tình thế khó khăn nghiêm trọng. Quân đội của nước này được trang bị kém và phải chịu áp đảo về quân số trên các mặt trận quan trọng, thậm chí lên đến tỷ lệ 12:1 ở các vùng xung quanh Kyiv. Lực lượng Nga khi đó đã càn quét miền nam Ukraine, chiếm Kherson và thiết lập một hành lang đường bộ nối với Crimea. Ở phía bắc và phía đông, các thành phố lớn – gồm cả Kyiv và Kharkiv – đã bị bao vây. Những kẻ phá hoại và sát thủ người Nga nhanh chóng xuất hiện ở Kyiv, tìm cách giết Zelensky và tiêu diệt chính phủ Ukraine.
Trong vòng vài ngày, tình hình trở nên tồi tệ đến mức Mỹ đã hỏi Zelensky liệu ông có muốn chạy trốn hay không (và đề nghị giúp ông sơ tán), một hướng hành động mà nhiều cố vấn của ông đã khuyến nghị. Nếu Zelensky rời khỏi đất nước, hoặc Kyiv thất thủ, thì giới tinh hoa Ukraine có thể đã dao động hoặc đào tẩu – như giới tinh hoa Afghanistan đã làm khi việc Taliban tiếp quản trở thành không thể tránh khỏi, và như một số quan chức Ukraine đã làm ở miền nam trong cuộc tiến công của Nga. Chính phủ Ukraine thực sự có thể đã bị phân mảnh. Tuy nhiên, Putin đã thua ván cờ này vì Zelensky kiên định ở lại – bắt đầu quá trình biến đổi của ông, trở thành một biểu tượng của sự đoàn kết và phản kháng quốc gia – và vì một số yếu tố có liên quan với nhau.
Chưa kể đến là những sai lầm của Nga. Kế hoạch tấn công của Putin chứa rất nhiều sai sót. Không mong đợi giao tranh gay gắt, người Nga đã dàn quân thành nhiều tuyến tiến công, làm giảm khả năng đối phó với sự phản kháng mạnh mẽ từ người Ukraine. Bị ám ảnh với những bí mật, chế độ Putin chỉ thông báo kế hoạch tấn công cho các chỉ huy chủ chốt, các bộ trưởng, và các đơn vị quân đội một vài ngày trước khi chiến tranh nổ ra. Cách tiếp cận này vẫn không ngăn được tình báo Mỹ phát hiện ra cuộc tấn công. Nhưng nó lại khiến các lực lượng Nga không được chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc xung đột dữ dội và khó chịu. Kết hợp với việc Putin không bổ nhiệm một chỉ huy chiến trường duy nhất, khiến các quân chủng và thậm chí các đơn vị riêng lẻ của Nga phải chiến đấu trong cuộc chiến đơn độc của họ thay vì làm việc theo nhóm – ví dụ, lực lượng đổ bộ đường không của Nga đã chật vật tự chiếm giữ các sân bay quan trọng mà không có hỗ trợ để trấn áp hệ thống phòng không của đối phương, cũng không có hỗ trợ từ lực lượng mặt đất lớn hơn.
Một vài trong số các vấn đề trên đây có liên quan đến bản chất cá nhân hóa của chế độ Putin. Nhưng kế hoạch của người Nga không nhất thiết phải tệ đến vậy, và ngay cả những cải tiến khiêm tốn cũng có thể mang lại lợi ích lớn. Nếu Nga tập trung vào ít mặt trận hơn – dù là củng cố vị thế ở Kyiv hay ưu tiên ngăn chặn lính Ukraine ở phía đông – họ có thể đã áp đảo lực lượng phòng thủ nhỏ và được trang bị kém của Ukraine. Nếu ban lãnh đạo Nga gửi thông báo sớm hơn cho các đơn vị chủ chốt, họ đã có thể chuẩn bị các kế hoạch chiến thuật và hoạt động hỗ trợ hậu cần tốt hơn. Sau cùng, cuộc tấn công hỗn loạn của Nga đã tạo điều kiện để các lực lượng Ukraine cầm chân địch thành công, phòng thủ vững chắc ở thủ đô và kéo quân đội của Putin vào một cuộc chiến dài đẫm máu.
Những sai lầm của Nga đã trở nên trầm trọng hơn bởi sự ngoan cường bất ngờ, dù hơi lộn xộn, của hàng phòng thủ Ukraine. Đất nước Ukraine chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến, vì hầu như các quan chức chỉ dự đoán nhiều nhất là một chiến dịch lớn nhắm vào miền đông Ukraine. Putin đã không thể mở đường đến thủ đô Kyiv nhờ sự hy sinh anh dũng của các đơn vị Ukraine trấn giữ các điểm trọng yếu, chẳng hạn như cây cầu nối hai thành phố Bucha và Irpin. Nỗ lực đó đã được hỗ trợ bởi một lượng lớn dân thường và quân nhân dự bị, những người đã tăng cường cho các đơn vị chính quy, báo cáo vị trí của lực lượng Nga, và góp phần vào cuộc kháng chiến toàn xã hội theo cách này hay cách khác.
Quân đội Ukraine cũng thể hiện ấn tượng ở những khía cạnh quan trọng. Họ sử dụng địa hình một cách thành thạo, tiến hành các cuộc tấn công dồn dập nhắm vào các đoàn quân Nga đang di chuyển qua các khu vực cây cối rậm rạp, khiến sông Irpin tràn bờ để làm chậm bước tiến của kẻ thù. Họ khai thác các công nghệ đơn giản, chẳng hạn như máy bay không người lái giá rẻ có thể nhắm mục tiêu vào xe tăng Nga. Trong những thời khắc quan trọng, các chỉ huy Ukraine đã triển khai các nguồn lực khan hiếm ở nơi mà chúng tạo ra tác động đáng kể – chẳng hạn, họ sử dụng khả năng hạn chế của pháo binh Ukraine để ngăn chặn, hoặc chí ít là cản trở, Nga chiếm Sân bay Hostomel bên ngoài Kyiv để từ đó tạo ra một cây cầu hàng không có thể giúp Moscow đưa lực lượng tiếp viện quan trọng đến thẳng cửa ngõ thủ đô Ukraine.
Ban lãnh đạo chính trị từng bị áp đảo trước đây của Ukraine cũng bắt đầu thể hiện vượt trội. Đặc biệt, Zelensky đã sử dụng tất cả các kỹ năng của mình để tập hợp dân chúng, duy trì sự gắn kết của chính phủ, và giành được sự đoàn kết quốc tế. Ukraine đã vượt qua giai đoạn đầu của cuộc chiến bởi vì họ đã thành công vừa đủ, ở số khu vực vừa đủ, để ngăn chặn cuộc tấn công kém hiệu quả của Nga – và bởi vì phản ứng dũng cảm và lan tỏa đáng kinh ngạc trước cuộc xâm lược đã giúp bù đắp cho sự thiếu chuẩn bị gần như chí mạng.
Và hàng phòng thủ Ukraine đã được củng cố bởi viện trợ nước ngoài. Dù chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden tỏ ra bi quan về triển vọng của Ukraine, họ vẫn quyết tâm khiến Putin khó hoàn thành cuộc chinh phục của mình. Rút kinh nghiệm từ những thất bại trong kế hoạch dự phòng của chính nước Mỹ trong quá trình rút quân khỏi Afghanistan, Washington đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc chiến của Nga ở Ukraine.
Trước cuộc xâm lược, loạt cảnh báo không ngớt của Mỹ đã xóa tan những đám mây mơ hồ của Putin, thứ mà ông sử dụng để tìm cách khơi mào chiến tranh. Những cảnh báo đó cũng khuyến khích một số chỉ huy Ukraine sơ tán các khí tài không quân và pháo binh có thể đã bị phá hủy nếu không được sơ tán. Điều quan trọng là Mỹ đã cảnh báo Ukraine về các yếu tố chính trong kế hoạch xâm lược của Nga, chẳng hạn như việc chiếm giữ Sân bay Hostomel, nhờ đó phản ứng của Kyiv đã được đẩy nhanh. Washington nhiều khả năng cũng hỗ trợ Ukraine theo những cách thiết yếu khác – chẳng hạn như giúp ngăn chặn cuộc tấn công mạng đáng sợ từ Điện Kremlin – nhưng có rất ít chi tiết được công khai. Dù có thế nào, việc chính phủ Mỹ đã sẵn sàng cho cuộc chiến đã bù đắp cho thực tế là chính phủ Ukraine không hề sẵn sàng.
Quan trọng nhất là sự đảo ngược gần như hoàn toàn các chính sách trước đây liên quan đến việc trang bị vũ khí cho Ukraine, một sự thay đổi bắt đầu dưới thời chính quyền Donald Trump, và tăng tốc đáng kể dưới thời Biden. Một Ukraine không có sự hỗ trợ quân sự của phương Tây sẽ chẳng tài nào sống sót qua những tháng đầu tiên, hoặc thậm chí những tuần đầu tiên, của cuộc chiến đối đầu một nước Nga được trang bị tốt hơn. Nhưng ngay cả trước cuộc xâm lược, Mỹ và một số đồng minh NATO đã bắt đầu vội vã cung cấp vũ khí chống tăng và phòng không, đạn dược và các nguồn vật tư khác cho Ukraine. Theo Politico Europe, khi Ukraine cạn kiệt đạn dược sau nhiều tuần giao tranh, Bulgaria – với sự hỗ trợ của Mỹ và Anh – đã chấp thuận cung cấp khẩn cấp các loại đạn tiêu chuẩn của Liên Xô để lấp đầy khoảng trống. Kể từ thời điểm đó trở đi, sự hỗ trợ của phương Tây – tình báo chiến lược và chiến thuật, viện trợ kinh tế và hỗ trợ quân sự – luôn đóng vai trò quyết định việc thành công hay thất bại của Ukraine. Đồng thời, Mỹ cũng thực hiện chức năng cần thiết là “giám sát một cách trung lập” – và đảm bảo rằng can thiệp từ bên ngoài sẽ có lợi cho Kyiv – bằng cách đe dọa Trung Quốc với các biện pháp trừng phạt và các hậu quả khác nếu nước này cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế mà Putin mong đợi.
Thoát hiểm trong gang tấc
Nói tóm lại, sự kết hợp giữa những sai lầm ngớ ngẩn của Nga, sự quyết tâm và tính sáng tạo của Ukraine, và hỗ trợ từ nước ngoài đã giúp Kyiv thoát hiểm trong gang tấc. Tuy nhiên, dù cuộc tấn công ban đầu của Putin đã thất bại và quân đội Nga phải rút lui đẫm máu khỏi Kyiv, thì quỹ đạo của cuộc xung đột vẫn là bất định.
Vào mùa xuân và mùa hè năm 2022, Nga sở hữu những lợi thế quan trọng, chẳng hạn như dự trữ pháo binh và đạn dược lớn hơn. Putin khi ấy vẫn có những lựa chọn nhất định. Nếu ông huy động thêm 300.000 quân vào mùa xuân thay vì đợi đến mùa thu, ông đã có thể kết hợp lợi thế về nhân lực với lợi thế về pháo binh khi các lực lượng Nga tái tập trung tấn công vào các vị trí của Ukraine ở Donbas. Nga cũng có thể đã bắt đầu tấn công một cách có hệ thống vào cơ sở hạ tầng của Ukraine ngay từ mùa xuân năm 2022, trước khi họ cạn kiệt kho dự trữ vũ khí dẫn đường chính xác. Trong chiến tranh, đúng thời điểm là điều quyết định tất cả, và Ukraine đã thành công một phần vì Putin luôn chậm trễ trong việc thích nghi với các điều kiện thay đổi.
Bất chấp những thất bại này, tính đến tháng 6/2022, cuộc tấn công của Nga ở Donbas đã khiến Ukraine phải chịu áp lực. Lực lượng Ukraine đang thiếu hụt rất nhiều về pháo binh; họ chịu tổn thất nặng nề và gần như đã bị bao vây tứ phía ở Severodonetsk. Sự can thiệp của phương Tây một lần nữa giúp đảo ngược tình thế. Việc cung cấp Hệ thống Hỏa tiễn Cơ động cao (HIMARS) và hệ thống tên lửa đa bệ phóng M-270 do Mỹ sản xuất, cũng như pháo M777 do Anh sản xuất, đã bù đắp cho bất lợi về pháo binh của Ukraine – kết hợp với thông tin tình báo có độ chính xác cao từ Washington và những nước khác – cho phép Kyiv tiến hành các cuộc tấn công tàn khốc nhắm vào các kho chứa đạn dược, trung tâm chỉ huy, và các địa điểm hậu cần của Nga. Khi cuộc tấn công của Nga rơi vào bế tắc, lực lượng của Putin yếu đến mức họ đã bị đánh gục trong cuộc tấn công kép sau đó của Ukraine ở Kharkiv và Kherson.
Không có gì chắc chắn
Đưa ra những kịch bản lịch sử khác với thực tế có thể khai sáng cho chúng ta về tương lai cũng như quá khứ. Trong trường hợp này, nó cho thấy rằng thành công của Ukraine dựa trên những yếu tố không đảm bảo sẽ tồn tại lâu dài. Một mặt, mức độ gắn kết xã hội và chính trị của Ukraine đã tăng đáng kể kể từ những ngày đầu cuộc chiến. Nhưng sự gắn kết đó sẽ bị thử thách trong năm tới, khi chiến tranh kéo dài và giới tinh hoa Ukraine bắt đầu hướng tới cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 3/2024. Khi tình hình chính trị của Ukraine trở nên nóng hơn, việc ra quyết định hợp lý – về các vấn đề cơ bản như địa điểm và thời điểm phát động các cuộc tấn công trong tương lai – có thể trở nên khó khăn hơn.
Tương tự, Ukraine đã được hưởng lợi rất nhiều từ kế hoạch kém cỏi của Nga, từ việc lính Nga khó thích nghi với những thất bại trên chiến trường và giới lãnh đạo chính trị Nga khó nắm bắt mức độ của những thách thức mà nước này phải đối mặt. Nếu hoạt động của Moscow được cải thiện dù chỉ ở mức khiêm tốn, Kyiv có thể sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến hoàn toàn mới.
Không ai nên loại trừ điều này. Quân đội ở ngay cả những xã hội đàn áp nhất cũng có thể học hỏi, và so với năm ngoái, Nga có thể đang tiến hành một cuộc chiến thông minh hơn, dù vẫn khá man rợ. Từng từ chối gọi nó là cuộc xâm lược, và từng hứa với người Nga rằng nó sẽ không ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, Putin cuối cùng đã thừa nhận rằng một cuộc chiến lâu dài và tiêu hao đang chờ họ ở phía trước. Quân đội của ông đang chuẩn bị phòng thủ nhiều lớp ở các khu vực bị chiếm đóng, đồng thời tiến hành đào tạo lực lượng mới được huy động và thực hiện các cuộc tấn công cơ sở hạ tầng tàn bạo nhằm phá hoại nền kinh tế Ukraine và làm suy yếu hệ thống phòng không của nước này. Cuộc tấn công mùa đông xung quanh Bakhmut đã dẫn đến tổn thất nặng nề cho Nga, nhưng như nhà phân tích quân sự Michael Kofman đã chỉ ra, nó cũng đã tước đi thế chủ động của Kyiv. Hơn nữa, người Nga chỉ mất các nhân sự không có nhiều giá trị – cụ thể là là tù nhân – trong khi Ukraine mất các nhân viên tinh nhuệ hơn.
Chỉ vì Ukraine không thua cuộc chiến không có nghĩa là họ đã thắng. Một loạt các kịch bản tương lai vẫn có thể xảy ra, nếu không muốn nói là chúng có khả năng xảy ra như nhau: từ một chiến thắng hoàn toàn của Ukraine, dẫn đến việc giải phóng toàn bộ lãnh thổ bị Nga chiếm đóng; đến một kịch bản trong đó Nga giữ được một phần đáng kể lãnh thổ của Ukraine trong tương lai gần; đến sự leo thang thành đối đầu trực tiếp giữa Nga và NATO.
Cũng có một cảnh báo cho Washington trong phân tích này: những gánh nặng lớn nhất có thể vẫn còn đang chờ phía trước. Ukraine tồn tại được đến lúc này vì Mỹ và các đồng minh của họ đã giúp giảm đáng kể sự chênh lệch sức mạnh giữa Kyiv và Moscow, và đảm bảo rằng Putin không thể chỉ đơn giản leo thang hoặc tấn công dữ dội để thoát khỏi cuộc xung đột. Tuy nhiên, khi Nga huy động nhiều nhân lực và nguồn lực kinh tế hơn – đồng thời nhập khẩu máy bay không người lái, pháo binh, và các năng lực khác từ Iran và Triều Tiên – chi phí để giúp Kyiv vượt lên trong cuộc đối đầu này sẽ tăng lên. Hãy nhớ đến quyết định gần đây của một số quốc gia NATO – cung cấp xe tăng chiến đấu cho Ukraine – một quyết định báo trước nhu cầu về các thiết bị tiên tiến khác trong những tháng tới, cho dù đó là tên lửa tầm xa hay máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư.
Cuối cùng, nếu kết quả của cuộc chiến không được định sẵn, thì tác động của nó đối với thế giới cũng vậy. Kết quả của xung đột sẽ định hình nhận thức về sự hiệu quả của chuyên chế và dân chủ, về mức độ an ninh mà NATO được hưởng ở mặt trận phía đông và mức độ ảnh hưởng của Nga đối với các nước láng giềng. Đối với những vấn đề này và cả các vấn đề khác, tác động của một cuộc chiến nơi quân Nga thất bại hoàn toàn sẽ khác với tác động của một cuộc chiến kết thúc bằng việc quân Nga chiếm đóng các khu vực quan trọng của Ukraine và Moscow có thể tiếp tục chiến sự khi họ muốn. Kịch bản thứ hai có lẽ không phải là một chiến thắng đối với thế giới tự do. Ngoài ra, vẫn còn những kịch bản khác có thể thay đổi đáng kể cục diện toàn cầu, chẳng hạn như khi Trung Quốc quyết định hỗ trợ trực tiếp cho Moscow. Cuộc chiến ở Ukraine mang đến nhiều bài học, nhưng có lẽ bài học quan trọng nhất là: trật tự toàn cầu không phải vốn dĩ đã vững chắc, hay vốn dĩ rất mong manh. Sức mạnh của nó chính là sức mạnh của những người coi trọng nó, và có thể tập hợp cùng nhau để duy trì nó khi bị thử thách.
Hal Brands là giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cấp cao Johns Hopkins, nghiên cứu viên cấp cao tại Viện Doanh nghiệp Mỹ, và chuyên gia bình luận của Bloomberg. Ông là đồng tác giả của cuốn sách “Danger Zone: The Coming Conflict With China.”