G7 có lập trường mạnh mẽ đối với Trung Quốc, nhưng họ có thể duy trì quyết tâm đó hay không?

Emel Akan

(Từ trái sang) Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, Thủ tướng Đức Olaf Scholz, Thủ tướng Anh Rishi Sunak, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen, Chủ tịch Hội đồng u Châu Charles Michel, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, Thủ tướng Ý Giorgia Meloni, và Thủ tướng Canada Justin Trudeau tham gia bữa trưa giữa phiên làm việc trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo G7 ở Hiroshima, Nhật Bản, hôm 19/05/2023. (Ảnh: Ludovic Marin/AFP/Getty Images)

Bài học về cuộc xung đột của Nga ở Ukraine đã khiến Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) phải đối đầu trực diện với Bắc Kinh trong năm nay, và tuyên bố nhất trí từ hội nghị thượng đỉnh ở Hiroshima (Nhật Bản) đã thể hiện một bước tiến quan trọng mà một số chuyên gia coi là điều ‘không tưởng’ cách đây hai năm.

Mối quan tâm cơ bản là liệu các nước G7 có thể duy trì sự thống nhất và hùng mạnh khi đối đầu với Trung Quốc như họ đã cam kết hay liệu họ sẽ tiếp tục đặt các lợi ích kinh tế lên trên “trật tự quốc tế dựa trên luật lệ” hay các nguyên tắc thiết yếu của họ, chẳng hạn như nhân quyền và dân chủ.

Cuộc họp thường niên lần thứ 49 của 7 nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới – Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Vương quốc Anh, Pháp, Ý và Canada – được tổ chức tại Hiroshima, Nhật Bản, từ ngày 19/5 đến ngày 21/5.

Mặc dù các hội nghị thượng đỉnh này hiếm khi được đưa tin, nhưng thông cáo chung năm nay (nhiều hình phạt hơn đối với Nga và một tuyên bố riêng về Trung Quốc) đã chỉ ra rằng, ít nhất là về mặt thông điệp, các nền dân chủ giàu có nhất thế giới đang đoàn kết hơn bao giờ hết.

Như đã nêu trong một tuyên bố đặc biệt mới về an ninh kinh tế, “các chiến thuật gây tổn hại của Trung Quốc đã làm suy yếu luật pháp và chuẩn mực quốc tế” là trọng tâm chính của hội nghị thượng đỉnh năm nay.

Các nhà lãnh đạo G7 đã công khai nói rằng họ coi Trung Quốc là kẻ bắt nạt kinh tế và cộng đồng quốc tế sẽ không dung thứ cho “sự cưỡng ép kinh tế” của Bắc Kinh. Lần đầu tiên, họ cảnh báo rằng sẽ có những “hậu quả” theo sau.

“Chúng tôi sẽ phối hợp với nhau để đảm bảo rằng những nỗ lực vũ khí hóa sự phụ thuộc kinh tế bằng cách buộc các thành viên G7 và các đối tác của chúng tôi, bao gồm cả các nền kinh tế nhỏ, phải tuân thủ và tuân theo sẽ thất bại và phải gánh chịu hậu quả”, tuyên bố cho biết.

Theo ông Bonnie Glaser, người đứng đầu Chương trình châu Á tại Quỹ Marshall của Đức tại Hoa Kỳ, tuyên bố của G7 về Trung Quốc là “khá mạnh mẽ”.

Mặc dù tuyên bố đặc biệt không đề cập đến Trung Quốc, nhưng rõ ràng là trong cuộc họp, tất cả đều hướng về Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo G7 đã đưa ra lập trường rõ ràng trong thông cáo của hội nghị thượng đỉnh, lên án hành động quân sự của Bắc Kinh ở biển Hoa Đông và Biển Đông, cũng như các hành vi tàn bạo về nhân quyền ở Tây Tạng và Tân Cương.

Theo một đánh giá của Hội đồng Đại Tây Dương, cách các nước G7 cùng nhau giải quyết vấn đề Trung Quốc là điều “không thể tưởng tượng được” so với thời điểm cách đây hai năm.

Chống lại sự cưỡng ép kinh tế của Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu của Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, và các nhà lãnh đạo G7 cũng tuyên bố ra mắt một “Nền tảng Điều phối về sự Cưỡng ép Kinh tế” mới tại hội nghị thượng đỉnh.

Nền tảng mới này có ý nghĩa quan trọng vì nó “cho thấy các nước G7 sẵn sàng phối hợp để cùng bảo vệ lẫn nhau trước sự cưỡng ép kinh tế của Trung Quốc”, theo ông Stephen Ezell, phó chủ tịch chính sách đổi mới toàn cầu tại Tổ chức Công nghệ Thông tin và Đổi mới (ITIF), một tổ chức tư vấn có trụ sở tại Washington.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực sử dụng sức mạnh kinh tế ngày càng tăng của mình để gây ảnh hưởng đến các chính phủ trên khắp thế giới.

Chẳng hạn, sau khi Úc kêu gọi điều tra độc lập về nguồn gốc của đại dịch COVID-19 vào tháng 4/2020, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã áp đặt các hạn chế đối với một số sản phẩm của Úc, đặc biệt là rượu vang, mà Trung Quốc là thị trường chính.

Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen, Thủ tướng Canada Justin Trudeau, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, Thủ tướng Anh Rishi Sunak, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, và Thủ tướng Đức Olaf Scholz đến chụp ảnh tập thể tại Đền Itsukushima trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh G7 ở Hiroshima, Nhật Bản, hôm 19/05/2023. (Ảnh: Stefan Rousseau/Pool/Getty Images)

Trung Quốc cũng đã sử dụng biện pháp cưỡng chế đối với các quốc gia khác, đáng chú ý nhất là Hàn Quốc vào năm 2017 vì nước này đã lắp đặt hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ; và Litva vào năm 2022 vì nước này quyết định thắt chặt quan hệ ngoại giao với Đài Loan.

Theo ông Antonio Graceffo, một nhà nghiên cứu kinh tế Trung Quốc và là tác giả của cuốn sách “Vành đai và Con đường: Sự Bành trướng Kinh tế trên Toàn cầu của Trung Quốc”, trong khi các nhà lãnh đạo G7 tỏ ra đoàn kết hơn trong năm nay, họ vẫn bộc lộ một số điểm yếu khi không hạ quyết tâm và áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Bắc Kinh.

“Họ thậm chí còn nhận ra rằng Trung Quốc đang ủng hộ cuộc chiến ở Ukraine nhưng không áp đặt các biện pháp trừng phạt có ý nghĩa, chẳng hạn như lệnh cấm thương mại đối với Trung Quốc”, ôngGraceffo, người cũng là một cộng tác viên của The Epoch Times, nói thêm.

Ông nói: “Tin tốt là G7 đã đoàn kết với nhau. Cuộc chiến ở Ukraine đã thay đổi động lực quyền lực trên toàn cầu, đưa các đồng minh xích lại gần nhau hơn và củng cố vị thế của Hoa Kỳ với tư cách là nhà lãnh đạo của thế giới tự do”.

‘Giảm thiểu rủi ro’

Một tác động đáng kể khác của hội nghị thượng đỉnh là việc các nhà lãnh đạo sử dụng cụm từ “giảm thiểu rủi ro” thay vì “cắt đứt quan hệ” với Trung Quốc, từ này vốn đã trở thành một thuật ngữ chính thức của G7.

“Chúng tôi không tách rời hoặc hướng nội. Đồng thời, chúng tôi thừa nhận rằng khả năng phục hồi kinh tế đòi hỏi phải giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa”, các nhà lãnh đạo cho biết trong một tuyên bố chung.

“Chúng tôi sẽ thực hiện các bước, về mặt cá nhân và tập thể, để đầu tư vào sức sống kinh tế của chính mình. Chúng tôi sẽ giảm bớt sự phụ thuộc quá mức những chuỗi cung ứng trọng yếu của mình”.

Chủ tịch Ủy ban Châu Âu (EU) Ursula von der Leyen, người cũng có mặt tại hội nghị thượng đỉnh, ủng hộ việc giảm thiểu rủi ro như một chiến lược.

“Đã qua thời điểm phải tách rời”, ông Graceffo nói thêm, nhấn mạnh rằng các nhà lãnh đạo G7 hiện đã nhận thức được điểm này.

Ông nói: “Việc giảm thiểu rủi ro này đòi hỏi phải đa dạng hóa. Đầu tư mới không đổ vào Trung Quốc như trước đây. Việc tách rời có nghĩa là di dời các doanh nghiệp hiện có ra khỏi Trung Quốc. Thay vào đó, giảm thiểu rủi ro đòi hỏi phải đầu tư vào Ấn Độ hoặc Việt Nam. Đó chính xác là những gì đang xảy ra”.

Các nhà lãnh đạo đã quyết định thực hiện các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và hạn chế đầu tư ra nước ngoài như một phần của phương pháp này để bảo vệ công nghệ nhạy cảm và thiết lập chuỗi cung ứng linh hoạt.

Chiến lược loại bỏ rủi ro này tuân thủ “Kiểm soát tháng 10”, một loạt các hạn chế do Bộ Thương mại Hoa Kỳ áp đặt nhằm cấm các công ty lớn chuyển chip và đầu vào cao cấp sang Trung Quốc để bảo toàn các công nghệ then chốt.

Trong một cuộc họp báo vào tháng 10/2022, Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan đã giải thích những hạn chế này. Ông nói rằng chính phủ đang thực hiện cái gọi là “mô hình sân nhỏ, hàng rào cao”. Mục đích là để ngăn chặn đầu tư ra nước ngoài vào công nghệ nhạy cảm, đặc biệt là những công nghệ có thể mang lại lợi thế cho đối thủ cạnh tranh.

Bà Glaser nói với The Epoch Times: “Phải xem xét cẩn trọng đến từng chi tiết. Theo quan điểm của tôi, việc tách rời chưa bao giờ được bàn đến – Hoa Kỳ sẽ không ngừng giao thương với Trung Quốc”.

“Vấn đề vẫn là: ‘sân nhỏ’ rộng bao nhiêu và hàng rào cao bao nhiêu?”.

(Từ trái sang) Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Charles Michel, Thủ tướng Ý Giorgia Meloni, Thủ tướng Canada Justin Trudeau, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, Thủ tướng Đức Olaf Scholz, Thủ tướng Anh Rishi Sunak, và Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen tham gia chụp ảnh tập thể với các nhà lãnh đạo G7 trước bữa trưa giữa phiên làm việc của họ về an ninh kinh tế tại khách sạn Grand Prince ở Hiroshima, Nhật Bản, hôm 20/05/2023. (Ảnh: Jonathan Ernst/Pool/AFP/Getty Images)

Ông Ezell đồng tình và nói thêm rằng đối với các nhà lãnh đạo G7, “hành động quan trọng hơn lời nói”.

“Chắc chắn là hợp lý khi nhận ra rằng các quốc gia G7 sẽ không thể tách rời hoàn toàn khỏi nền kinh tế Trung Quốc. Điều đó là bất khả thi và không mong muốn do bản chất hội nhập của chuỗi cung ứng và thị trường toàn cầu”.

“Tuy nhiên, ‘giảm thiểu rủi ro’ để giảm bớt sự phụ thuộc và tính dễ bị tổn thương cốt lõi – đặc biệt là những thứ có thể bị Trung Quốc vũ khí hóa thông qua cưỡng ép kinh tế – chính xác là bước đi đúng đắn”.

Thông điệp trái chiều

Một số người đã chỉ trích thông cáo chung của hội nghị thượng đỉnh G7 vì đã truyền tải những thông điệp mâu thuẫn bằng cách đề cập đến sự tương tác tích cực với Bắc Kinh, vốn không tồn tại một năm trước.

Các nhà lãnh đạo nhấn mạnh mong muốn thiết lập “mối quan hệ mang tính xây dựng và ổn định với Trung Quốc”.

Họ cũng nhấn mạnh rằng “các cách tiếp cận chính sách của chúng tôi không nhằm gây tổn hại Trung Quốc, chúng tôi cũng không tìm cách cản trở sự phát triển và tiến bộ kinh tế của Trung Quốc”.

Theo ông Steve Yates, một chuyên gia về Trung Quốc và cựu quan chức an ninh quốc gia của Nhà Trắng, hội nghị thượng đỉnh G7 đã đưa ra rất nhiều thông điệp mâu thuẫn.

“Thông điệp của G7 giống như một hướng dẫn mẫu giáo cơ bản về cách đối phó với ĐCSTQ”, ông nói trong chương trình “Trung Quốc tiêu điểm” của đài NTD TV.

Ông Yates lập luận rằng giới lãnh đạo Trung Quốc giải quyết bằng “hành động và quyền lực” và không “tôn trọng trò chơi chữ”, đồng thời nói thêm rằng không có tiến triển đáng kể nào tại cuộc họp năm nay vì những thông điệp mâu thuẫn.

Theo ông Yates, các quốc gia G7 như Pháp và Đức vẫn tiếp tục theo đuổi các cơ hội kinh tế và dựa vào cả Trung Quốc và Nga, trong khi chỉ “nói suông để răn đe”.

‘Hội thảo chống Trung Quốc’

Hôm 22/05, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án thông cáo chung của G7 và triệu tập đại sứ Nhật Bản để phản đối nước chủ nhà tổ chức hội nghị thượng đỉnh. Tờ Global Times do nhà nước hậu thuẫn đã đăng một bài xã luận, gọi hội nghị thượng đỉnh G-7 lần này là một “hội thảo chống Trung Quốc”.

Theo bài xã luận, thông cáo chung của G7 đã chứng minh rằng Washington “đang nỗ lực dệt nên một mạng lưới chống Trung Quốc ở thế giới phương Tây”.

Đáp lại, Bắc Kinh đã áp đặt các hạn chế đối với Micron, một nhà sản xuất chip của Hoa Kỳ vì cho rằng các sản phẩm của công ty này đã gây ra các mối đe dọa an ninh nghiêm trọng.

Động thái của ĐCSTQ diễn ra sau khi Tổng thống Joe Biden dự đoán về sự “tan băng” trong quan hệ với Trung Quốc trong một cuộc họp báo khi kết thúc hội nghị thượng đỉnh vào ngày 21/5.

Bên cạnh đó, Tổng thống Mỹ cũng đổ lỗi cho sự xấu đi hiện tại trong quan hệ với Trung Quốc là do một “quả khinh khí cầu ngớ ngẩn” đã bay qua không phận Hoa Kỳ và mang theo thiết bị do thám trước khi bị máy bay chiến đấu của Mỹ bắn hạ trên Đại Tây Dương.

Tổng thống Joe Biden phát biểu trong cuộc họp báo sau Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo G7 ở Hiroshima, Nhật Bản, hôm 21/5/2023. (Ảnh: Kiyoshi Ota/Pool/AFP/Getty Images)

Ông Biden nói với báo giới: “Mọi thứ đã thay đổi về cách chúng tôi giao tiếp với nhau. Tôi tin rằng mối bang giao [Mỹ – Trung] sẽ sớm tan băng”.

Một số người chỉ trích ông Biden vì đã gửi những tín hiệu trái chiều tới Bắc Kinh và không thể hiện sự cứng rắn trong cuộc họp báo này, trong khi những người khác ca ngợi ông vì những tuyên bố bất ngờ về vấn đề Đài Loan.

‘Rõ ràng chiến lược’?

Trong buổi họp báo, khi được hỏi về Đài Loan, Tổng thống Mỹ đã cầm micro và bắt đầu phát biểu khi bước đi trên sân khấu.

Ông Biden nhắc lại rằng Hoa Kỳ cam kết thực hiện chính sách “Một Trung Quốc”, chính sách này thừa nhận ĐCSTQ là chính phủ của Trung Quốc và Hoa Kỳ không mong đợi Đài Loan tự tuyên bố độc lập.

“Nhưng, trong khi chờ đợi chúng tôi sẽ tiếp tục đặt Đài Loan vào vị trí mà họ có thể tự bảo vệ mình. Và hầu hết đồng minh của chúng tôi đều nhận ra rằng nếu Trung Quốc hành động đơn phương thì sẽ có hậu quả”.

Trong những năm gần đây, giới lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố Đài Loan là một phần lãnh thổ của mình, đồng thời gia tăng quấy rối và đe dọa quân sự đối với hòn đảo này, khiến các quốc gia phương Tây lo ngại. Theo Đạo luật Quan hệ Đài Loan năm 1979, Washington có nghĩa vụ cung cấp cho hòn đảo tự trị các phương tiện để tự vệ trước các cuộc tấn công.

Nhiều người có lập trường cứng rắn với Trung Quốc ở Washington đã ca ngợi bình luận của ông Biden, nói rằng thông điệp này đã đưa ra sự “rõ ràng chiến lược” rất cần thiết về vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên vẫn có một số người hoài nghi về những bình luận của ông, tự hỏi liệu ông có đang ám chỉ đến một phản ứng quân sự và liệu ông có thực sự muốn làm những gì ông đã nói hay không.

Trước đây ông Biden đã nhiều lần tuyên bố rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ Đài Loan nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc xâm lược hòn đảo dân chủ, khác với chính sách “mơ hồ chiến lược” bấy lâu nay. “Mơ hồ chiến lược” tức là cố tình mơ hồ về những gì Hoa Kỳ sẽ làm gì trong trường hợp có một cuộc tấn công. Vào mỗi thời điểm như vậy, các quan chức của ông đều thông báo rút lại bình luận và tuyên bố rằng lập trường của Washington về vấn đề Đài Loan là không thay đổi.

Tuy nhiên, giới quan sát cho rằng ông Biden đã lựa chọn từ ngữ cẩn trọng khi nói về các đồng minh và hầu hết các nước G7 đã cam kết sẽ không khoanh tay đứng nhìn Trung Quốc xâm lược Đài Loan.

Theo nhận xét của Biden, “có sự đồng thuận về mẫu số chung thấp nhất, nhưng không có sự nhất trí về những hành động đáp trả đó sẽ là gì”.

Bởi vì Đài Loan là một trung tâm trọng yếu trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu, các nước G7 nhận ra rằng việc quân đội Trung Quốc tiếp quản hòn đảo sẽ dẫn đến sự gián đoạn nguồn cung nghiêm trọng trong nhiều doanh nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào chip Đài Loan.

Ông Rupert Hammond-Chambers, một chuyên gia về Đài Loan và là người đứng đầu Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ – Đài Loan, cho biết tuyên bố của ông Biden rất quan trọng vì nó một lần nữa khẳng định lập trường của ông về vấn đề này.

“Đây là lần thứ tư ông ấy tuyên bố điều này, thật thú vị”, ông nói với The Epoch Times.

“Ông ấy tiếp tục mang lại sự rõ ràng mang tính chiến lược đối với vấn đề này vào thời điểm mà ngay cả các Tổng thống có lập trường cứng rắn trước ông ấy cũng ngần ngại nói thẳng về ý định của Mỹ”.

Ông Hammond-Chambers tin rằng Mỹ nên từ bỏ lập trường “mơ hồ chiến lược” và truyền tải một thông điệp rõ ràng tới Trung Quốc.

“Tôi nghĩ đó chính xác là điểm mà chính sách của Mỹ nên hướng tới”.

Trong thông cáo chung của G7 năm nay, các nhà lãnh đạo đã nhắc lại tầm quan trọng của “hòa bình và ổn định trên eo biển Đài Loan” và thúc giục một giải pháp hòa bình cho các vấn đề xuyên eo biển. Họ cũng bày tỏ lo ngại sâu sắc về tình hình ở Biển Hoa Đông và Biển Đông, đồng thời nhấn mạnh sự phản đối mạnh mẽ đối với “bất kỳ nỗ lực đơn phương nào nhằm thay đổi hiện trạng bằng vũ lực hoặc cưỡng ép”.

(Từ trái sang phải) Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, Thủ tướng Úc Anthony Albanese, Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida, và Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tổ chức cuộc họp bốn bên lề Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo G7 tại Hiroshima, Nhật Bản, hôm 20/05/2023. (Ảnh: Kenny Holston /Pool/AFP/Getty Images)

Các nhà lãnh đạo của Nhóm Quad (Bộ Tứ) gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, cũng gặp nhau bên lề hội nghị thượng đỉnh và gửi một thông điệp tương tự tới Bắc Kinh.

Tổ chức này tuyên bố, “Chúng tôi phản đối mạnh mẽ các hành động gây bất ổn hoặc đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng thông qua vũ lực hoặc cưỡng chế”.

Về vấn đề Đài Loan, ông Hammond-Chambers tuyên bố rằng các đồng minh của Hoa Kỳ đã dần dần bắt đầu sử dụng những luận điệu giống như Washington đã sử dụng trong nhiều năm.

Ông nói: “Nếu Trung Quốc tấn công Đài Loan, thì tôi tin rằng Nhật Bản sẽ sát cánh chiến đấu cùng Mỹ, cũng như người Úc và người Anh”.

“Hiện tại, liên minh đó đang mở rộng”.

Theo The Epoch Times

Huyền Anh biên dịch

Tác giả Emel Akan là phóng viên cấp cao của The Epoch Times tại Nhà Trắng, nơi cô đưa tin về chính quyền ông Biden. Trước khi đảm nhận vai trò này, cô đã đưa tin về các chính sách kinh tế của chính quyền cựu Tổng thống Trump. Trước đây, cô làm việc trong lĩnh vực tài chính với tư cách là nhân viên ngân hàng đầu tư tại JPMorgan. Cô tốt nghiệp Thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Đại học Georgetown.

Related posts