Ở góc độ nhà tuyển dụng, chuyên gia đề nghị cần có cơ chế, tiêu chí chung để đánh giá thực chất chất lượng sinh viên, không để tỷ lệ tốt nghiệp giỏi, xuất sắc quá cao như hiện nay.
Thông tin trên do ông Dương Xuân Phượng, Phó Giám đốc Học viện Viettel, nói tại Hội thảo Giáo dục đại học Việt Nam, chiều ngày 5/11.
Ông Phượng cho biết chương trình thực tập sinh tài năng Viettel Digital Talent từng nhận được 2.000 hồ sơ. Đây đều là các sinh viên xuất sắc nhưng đơn vị chỉ chọn được 100 ứng viên.
Khảo sát kỹ hơn 100 sinh viên này, ông Phượng cho biết 3/4 các em tự nhận thấy những gì mình được học chỉ đáp ứng được khoảng 75% yêu cầu công việc, chỉ khoảng 2% cho rằng với những gì mình được trang bị có thể đáp ứng 90% yêu cầu doanh nghiệp. “Còn lại chúng tôi phải đào tạo lại”, ông Phượng nêu .
Ông Phượng bày tỏ băn khoăn khi có sự bất cập về công tác, đánh giá phân loại sinh viên tốt nghiệp, khi mà tỷ lệ khá, giỏi, xuất sắc của một số trường lên tới 99%.
Trong khi đó, rõ ràng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi, xuất sắc không tỷ lệ thuận với khả năng đáp ứng yêu cầu công việc.
“Trước đây, nhiều sinh viên trung bình nhưng thực hành tốt, còn nay sinh viên xuất sắc nhưng chúng tôi cũng vẫn phải dạy lại nhiều”, ông Phượng nói.
Do đó, ông Phượng đề nghị cần đổi mới nội dung, chương trình đào tạo sát với thực tế doanh nghiệp, tức là đào tạo theo “tín hiệu thị trường”. Thay vì câu hỏi đến trường “học được kiến thức gì?”, thì cần câu hỏi là “học xong có thể làm được gì?”.
Để làm được điều này, theo ông Phượng, các trường đại học phải rà soát, xem xét tiêu chí đánh giá sinh viên; đồng thời, kiểm soát tỷ lệ giỏi, xuất sắc đúng thực chất.
Doanh nghiệp chưa hài lòng
Theo Báo cáo của Bộ GD&ĐT, hiện cả nước có 237 trường đại học với trên 2 triệu sinh viên và trên 70 nghìn giảng viên.
Đánh giá về chất lượng đào tạo, báo cáo của TS Thiều Huy Thuật, ThS Nguyễn Thị Ngọc, Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên, cho hay đa số các doanh nghiệp chưa hài lòng về chất lượng sinh viên sau khi ra trường.
“Tình trạng doanh nghiệp thiếu nhân sự nhưng khó tuyển người hoặc phải tốn thời gian, chi phí đào tạo lại nhân sự diễn ra khá phổ biến. Đa số sinh viên ra trường thiếu tác phong làm việc công nghiệp. Bên cạnh ngoại ngữ, các kỹ năng mềm khác như sử dụng máy tính, thuyết trình, giải quyết vấn đề của sinh viên mới tốt nghiệp đều không tốt; không tích cực trong việc sử dụng các kỹ thuật cơ bản, không có ý thức về việc giữ gìn nhà xưởng sạch sẽ, thiếu kiến thức cơ bản như đọc bản vẽ thiết kế chi tiết; thiếu kỹ năng mềm trầm trọng như giao tiếp, soạn thảo văn bản…”, báo cáo nêu.
Hai tác giả cho biết theo báo cáo thị trường công nghệ thông tin Việt Nam 2021 Developers Recruitment State, chất lượng sinh viên sau tốt nghiệp đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp hiện đại vẫn còn thấp. Trong số hơn 55.000 sinh viên công nghệ thông tin tốt nghiệp mỗi năm, chỉ có khoảng 16.500 sinh viên (30%) đáp ứng được những kỹ năng và chuyên môn mà doanh nghiệp cần. Bức tranh đào tạo đại học các chuyên ngành khoa học xã hội còn có phần tối hơn bởi cơ hội việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp còn thấp hơn so với các ngành kỹ thuật, công nghệ.
Hai tác giả cho rằng nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là “sự chênh lệch giữa chất lượng giáo dục đại học so với yêu cầu của thị trường lao động. Trường đại học tập trung giáo dục, đào tạo những gì đang có, không chú trọng đúng mức đến những gì xã hội cần. Việc nhiều trường đại học không chú trọng đào tạo kiến thức chuyên môn, kỹ năng mà doanh nghiệp, xã hội cần là lý do khiến đa số sinh viên ra trường không đáp ứng được tiêu chuẩn tuyển dụng của doanh nghiệp, các tổ chức khác. Nguyên nhân là chất lượng đội ngũ giảng viên còn thấp. Năng lực của đội ngũ giảng viên đại học qua nhiều năm chưa được đánh giá cao. Thậm chí đây vẫn là điểm yếu trong hệ thống giáo dục đại học”.
PGS.TS Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, lại cho rằng doanh nghiệp cũng chưa tích cực tham gia đào tạo nhân lực với các trường.
Dẫn lại khảo sát được công bố tháng 6/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bà Ngọc nói 135 trường đại học đang hợp tác với hơn 6.120 doanh nghiệp, trung bình mỗi trường hợp tác với 60 doanh nghiệp.
Tuy nhiên, hoạt động liên kết chính là tiếp nhận sinh viên thực tập, kiến tập với tỷ lệ hơn 90%. Hoạt động hợp tác phổ biến thứ hai là trao học bổng, tổ chức ngày hội việc làm với gần 70% doanh nghiệp tham gia. Việc tham gia góp ý chương trình đào tạo, giảng dạy và thỉnh giảng tại các trường đại học chỉ có 30%, chủ yếu là chia sẻ kinh nghiệm. Trong khi đó, việc này là cần thiết để doanh nghiệp có nhân lực mà mình mong muốn.
Bà Ngọc cho rằng doanh nghiệp cần cùng trường đại học xây dựng chương trình đào tạo; có chiến lược nuôi dưỡng tài năng bằng cách đầu tư cơ sở vật chất cho trường và chia sẻ thông tin tuyển dụng liên tục.
Minh Long