Nguyễn Khắc Mai
Mai một có nghĩa là đang bị chôn vùi, mất đi. Cái gì chứ cái liên quan đến căn tính, mà đang mất đi, cũng đồng nghĩa với đang chết. Nếu để nó mai một thì không chỉ là tiếc, mà là bất hạnh, là thảm họa.
Vào ngày 27-4 vừa rồi, chúng tôi về Thủy Nguyên Hải phòng dâng hương Đền thờ ngài Tuệ Tung Thượng Sỹ, tức Trần Tung, một nhà văn hóa lớn lao tầm cỡ của Đời Trần. Người là anh ruột của Trần Hưng Đạo, là vị thầy chỉ bày từng bước để Trần Nhân Tông trở thành vị minh quân, thành Phật hoàng. Ngài cũng là vị tướng tàì ba, hơn nữa còn là nhà văn hóa, mà tầm vóc, chúng ta chưa hình dung hết.
Đầu tháng Tư này chúng tôi cũng đã vào Kỳ Anh Hà Tĩnh dâng hương đền Chế Thắng Phu Nhân-Nguyễn Thị Bích Châu, cũng là một nhân vật thánh hóa của tinh thần Đông A. Bà đã để lại Kê minh thập sách, một áng văn thiên cổ, mà Lê Thánh Tông cho rằng ai làm theo sẽ là người chiến thắng. Vì thế đã dâng tặng Bà danh hiệu Chế Thắng Phu nhân!
Ở cả hai nơi, chúng tôi đều dâng lời khấn, mong dân chúng được mạnh khỏe, yên vui, lãnh đạo nước nhà đều khỏe mạnh, minh mẫn, tài trí, liêm minh sáng suốt để cùng nhân dân Vươn mình vào Kỷ nguyên mới. Như lời của Thánh mẫu Chế Thắng Phu nhân: “Chỉ mong nước được trị dân được an, đó là ý nguyện của thiếp”.
Năm nay cũng là năm kỷ niệm 800 năm khai cơ của nhà Trần.(Trần Thái Tông lên ngôi năm 1225, đến nay 2025 là chẵn tám trăm năm.Vì thế vào tháng Tư năm nay, khi mọi người, từ người lãnh đạo đất nước đến những nam nữ thanh niên trả lời báo chí, cả nhiều nhà văn nhà báo nhà trí thức đều có những lời có cánh, những ý tưởng cao thượng đẹp đẽ. Tôi cũng không vơi những niểm riêng, cố gắng liên kết gọi về những nét văn hóa đầy giá trị minh triết của văn hóa Dông A, từng làm rạng rỡ non sông, từng nuôi dưỡng tâm hồn Việt. Văn hóa Đông A để lại rất nhiều bài học lịch sử sáng giá cao quý. Chẳng hạn như Trần Hưng Đạo cùng anh em con cháu của mình không giữ chữ hiếu mù quáng mà quyết gạt quyền lợi gia tộc ích kỷ, để vì nghĩa lớn của quốc gia, đoàn kết anh em đoàn kết thân tộc, chung lòng chung sức đánh bại kẻ thù Nguyên-Mông. Như Trần Thái Tông đem lòng khoan dung để xử lý việc mâu thuẫn anh em tranh giành ngôi thứ. Ông che chở cho An Sinh vương Trẫn Liễu, không nỡ để anh của mình chết dưới gươm cuả Trần Thủ Độ. Điều ấy đã được Trần Dụ Tông tổng kết xác đáng trong một bài thơ rất thâm thúy:
Đường Việt khai cơ lưỡng Thái tông,
Bỉ xưng Trinh Quán ngã Nguyên Phong.
Kiến Thành tru tử An Sinh tại,
Miếu hiệu tuy đồng Đức bất đồng.
Nghĩa: nước Đường nước Việt mở cơ nghiệp đều có hai ông Thái Tông. Các anh xưng Trinh Quán (niên hiệu của Đường Thái Tông) còn ta là Nguyên Phong (niên hiệu cuả Trần thái tông). Kiến Thành anh của Đường Thái Tông bị tru diệt, còn An Sinh anh của Trần Thái Tông vẫn sống. Miếu hiệu tuy giống nhau mà Đức thì không giống nhau. Cái Đức Việt tộc đời Trần thật cao cả. Đó cũng chính là sức mạnh của quân dân thời Đông A chăng?
Một nền đạo lý làm người cao cả từng hình thành và được khẳng định. Như tư tưởng “Khoan thư sức dân”; tư tưởng “Ở trong núi không có Phật. Phật ở ngay trong tâm của ta. Ở giữa triều đình, vừa lo việc dân việc nước cũng có thể tu tâm dưỡng tánh hàng ngày, nên những ông vua vẫn trở thành thiền sư cư sĩ, thành Phật hoàng. Như tư tưởng và nhân cách của người làm vua làm lãnh đạo “Bậc nhân chủ, phải lấy lòng của thiên hạ làm lòng của mình, lấy ý của thiên hạ làm ý của mình.” Đó chính là triết lý làm lãnh đạo của người Việt, xưa cũng như nay. Họ dã để lại dấu ấn của Phật học trong đời sống chính trị, văn hóa và tôn giáo rất lâu bền.
Thời mạt Trần vẫn để lại một áng văn Kê minh thập sách, mười chính sách để làm cho Nước trị Dân an mà như lời Chế Thắng Phu Nhân nói “Rất hợp thời này”. Có nghĩa là ở vào đầu thế kỷ XXI này, trong kỷ nguyên Vươn mình của chúng ta hôm nay vẫn còn giá trị kim nhật kim thì! Tôi đã đến mấy ngôi đền thờ anh linh của văn hóa Đông A đề thành tâm van vái cầu mong anh linh tiên tổ soi chiếu tâm hồn cho con dân nước Việt hôm nay, đem những giá trị văn hóa của tiền nhân ứng dụng vào sự nghiệp mới lớn lao của đất nước.
Tuy nhiên, có một nét văn hiến rất cao thượng rất đẹp mà văn hóa Đông A đã để lại, như một dấu ấn đậm đà đã truyền từ đời thượng cổ. Đó là căn tính về sức mạnh của Việt tộc.
Trong sách Trung dung, có đoạn Tử Lộ hỏi Khổng Tử về sức mạnh. Khổng Tử trả lời về sức mạnh nào, sức mạnh của bắc phương hay của nam phương? Ở phương Nam thì sức mạnh của họ là “Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, quân tử cư chi. Đó là sức mạnh của phương Nam. Còn, gối đầu lên cung kiếm, chết cũng không sợ, là sức mạnh của phương Bắc, là triết lý sống của bọn cường bạo. 2500 năm trước Khổng Tử từng xác nhận, ở phương Nam địa bàn của Việt tộc, nơi coi sức mạnh của mình là lấy khoan dung, nhu thuận để giáo hóa dân chúng, không trả thù kẻ vô đạo. Đó là đất sống của người quân tử. Thế là rõ, từ thời thượng cổ người Việt từng có căn tính là khoan dung, nhu thuận, mềm mỏng, một phẩm chất người rất cần cho cuộc sống hôm nay…
Đời Trần để lại dấu vết thường tìm trong văn hóa Việt tộc để làm bài học ứng xử trong cuộc sống. Thời đó đã biết lấy đức khoan thư để làm quốc sách. Còn nhớ khi tổng kết chiến thắng, các đạo đã dâng lên Thái miếu những chiến lợi phẩm đã thu được của quân giặc. Và khi thưởng phạt kẻ có công, người có tội, nhà vua đã ra lệnh đốt ngay tại triều hòm đựng giấy tờ giao dịch, đầu hàng làm tay sai cho Thát Đát của một số thân vương, thân hào. Chỉ một số người tội nặng thì buộc phải đổi họ. Chính sách ấy là một nét son lộng lẫy của văn hiến Việt có cội nguồn sâu xa lưu lại từ đời thượng cổ về một nét đẹp cao quý của căn tính cốt cách của người Việt. Đáng tiếc, do sự giao thoa văn hóa, rồi do thiển cận và sa đọa về văn hiến, căn tính tốt đẹp nhân văn ấy đã bị phai nhòa mai một.
Nhân tháng Tư, tôi cũng xin kể về một câu chuyện sự ứng xử sau chiến tranh với người bại trận. Và tôi có linh cảm rằng điều ấy có liên quan tới căn tính văn hóa của Việt tộc. Tôi đọc trên mạng và được nhiều bạn bè uyên bác nói cho nghe. Có những người Mỹ tiêu biểu là cụ Abraham Lincoln, là Tổng thống Mỹ quốc, sau khi phe phương Bắc đã đánh bại phe phương Nam chủ trương ly khai và duy trì chế độ nô lệ, những người thắng trận chẳng những không bắt tội kẻ bại trận. Trái lại còn chủ trương đại đoàn kết, xá tội và phục chức cho tướng sĩ phe miền Nam để họ tiếp tục phục vụ cho nước Mỹ. Mỹ sở dĩ thành nhà nước hùng cường vĩ đại, một phần quan trọng là nhờ chính sách tiến bộ và nhân văn của bên thắng cuộc. Nhân tài vật lực không bị thủ tiêu mà trở thành nguồn nội lực thâm hậu để chấn hưng và phát triển. Giờ đây đang là một Liên bang với 50 tinh tú của vũ trụ. Nếu người Mỹ hiện đại biết tiếp nhận những giá trị minh triết của tiền nhân, biết khoan dung, biết nhu thuận, mà tổ tiên họ đã tiếp nhận từ nguồn năng lượng văn hóa Hoabinhnian của người Việt cổ từ vạn năm trước, họ sẽ vẫn là quốc gia dân tộc tiên tiến của một thời đại văn minh mới. Tôi tin rằng W, Druker, cũng là một ông Mỹ, đã tiếp nhận được năng lượng của văn hóa ấy, nên mới nói được chắc nịch rằng dân tộc Việt mới là người sẽ định hướng cho nhân lọại phát triển.
Nhưng những người Việt hiện đại hậu duệ của một cộng đồng con rồng cháu tiên, chắc chắn sẽ dần tự mình thanh tẩy thoát khỏi những tà thuyết mê muội đang hạ thấp căn tính phẩm giá rất nhân văn của mình. Hãy tự diễn biến tự chuyển hóa để phục nguyên, trở lại căn tính nhân văn khoan dung nhu thuận như nước, một giá trị Người mà cộng đồng nhân loại của thời đại trí tuệ nhân tạo cần có. Khoan Thư Dĩ Giáo, Bất Báo Vô Đạo, Quân tử Cư chi.Tôi tin người Việt không ai lại muốn làm kẻ tiểu nhân.
Bài viết cuối tháng chắc chắn không phải là ý nghĩ của cá Tháng Tư./.
N.K.M.