Cấu trúc nợ mà Trung Quốc tạo ra ở các nước nghèo thông qua BRI: Phức tạp đến kinh ngạc

Lê Minh

Nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình có bài phát biểu tại cuộc họp báo sau Diễn đàn Vành đai và Con đường tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Trung Quốc ở Bắc Kinh, Trung Quốc, hôm 27/04/2019. (Ảnh: Wang Zhao / Getty Images)

Về mặt lý thuyết, sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc sẽ giúp các nước tham gia sáng kiến tăng trưởng GDP. Tuy nhiên trên thực tế, ở nhiều nước, các khoản nợ Trung Quốc tăng mạnh, môi trường ngày càng ô nhiễm, và khoản thâm hụt thương mại với Trung Quốc không hề nhỏ; trong khi tốc độ tăng trưởng GDP gắn với BRI còn rất xa vời.

Con đường tơ lụa: Cái bẫy nợ khổng lồ

Năm 2013, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố rằng ông khởi xướng BRI để mang thịnh vượng chung đến các nước đang phát triển, giúp họ cải thiện điều kiện kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết số tiền mà các quốc gia tham gia sáng kiến nhận được từ Trung Quốc là dưới dạng vay nợ, thay vì được tài trợ. Cứ có 31 khoản vay mới có 1 khoản tài trợ.

Từ năm 2000 – 2017, Trung Quốc đã cung cấp tài chính cho ít nhất 13.427 dự án, với tổng trị giá 843 tỷ USD, thông qua hơn 300 đơn vị thuộc sở hữu nhà nước ở 165 quốc gia. Kể từ khi bắt đầu thực hiện BRI, vào năm 2013, Trung Quốc đã cung cấp tài chính với mức trung bình 50-100 tỷ USD/năm. Các khoản tiền mà Bắc Kinh cho vay chủ yếu là bằng USD, và đắt hơn nhiều so với các khoản tiền từ nhiều quốc gia và tổ chức tài trợ phương Tây.

Mắc nợ Trung Quốc là vấn đề đặc biệt nhức nhối đối với các nước đang phát triển bởi vì, không giống như nợ trong nước, nợ nước ngoài phải được thanh toán thông qua hàng hóa xuất khẩu. Do đó, có những giới hạn nhất định về số lượng nợ mà các nước nghèo có thể gánh chịu. Thậm chí, suy thoái kinh tế toàn cầu đã làm giảm số nợ bền vững. Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công của một quốc gia được coi là bền vững nếu quốc gia đó có thể đáp ứng tất cả nghĩa vụ thanh toán hiện tại và trong tương lai mà không cần hỗ trợ tài chính đặc biệt hoặc rơi vào tình trạng vỡ nợ. Các quốc gia châu Phi hiện là những nước mắc nợ Trung Quốc nhiều nhất. Họ đang lâm vào cảnh vỡ nợ hoặc có rủi ro vỡ nợ cao.

Phòng thí nghiệm nghiên cứu AidData tại Viện nghiên cứu toàn cầu của William & Mary cho biết, nợ Trung Quốc của 42 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình đã vượt quá 10% GDP. Đối với một số nước, khoản nợ này thậm chí còn khủng khiếp hơn. Ví dụ, nợ Trung Quốc của Lào chiếm tới hơn 30% GDP. Một công nhân Trung Quốc vận chuyển vật liệu cho tuyến đường sắt đầu tiên nối Trung Quốc với Lào, một phần quan trọng trong dự án Vành đai và Con đường của Bắc Kinh, Luang Prabang, Lào, hôm 08/02/2020. (Ảnh: Aidan Jones / AFP qua Getty Images )

Cấu trúc các khoản nợ BRI: Phức tạp đến kinh ngạc

Mỗi ngày qua đi, nợ Trung Quốc liên quan đến BRI của nhiều quốc gia lại thêm chồng chất. Một số ví dụ điển hình bao gồm: Nợ Trung Quốc của Cộng hòa Congo đã tăng từ 13,62% tổng thu nhập quốc dân (GNI) năm 2014 lên 38,92% năm 2019; của Djibouti tăng từ 7,71% lên 34,64%; và của Angola từ 5,87% lên 18,95%, theo báo cáo của Trung tâm Tài chính & Phát triển Xanh (GFDC).

Cũng theo GFDC, đến cuối năm 2019, các nước thành viên BRI mắc nợ Trung Quốc nhiều nhất là Pakistan với 20 tỷ USD, Angola – 15 tỷ USD, Kenya – 7,5 tỷ USD, Ethiopia – 6,5 ​​tỷ USD và Lào – 5 tỷ USD.

Trong khoảng thời gian từ năm 2021 – 2024, khi nhiều quốc gia bắt đầu phải thanh toán các khoản vay, họ sẽ bị quá tải đến mức họ không còn tiền để đầu tư phát triển đất nước. Theo GFDC, những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các khoản nợ BRI gồm có Tonga, Djibouti, Campuchia, Angola, Cộng hòa Congo, Comoros và Maldives.

Trong khi đó, do thiếu minh bạch trong việc cho vay BRI, tổng nợ chính thức được ước tính thấp hơn nhiều so với tổng nợ thực tế. Việc cho vay BRI không chỉ đến từ chính quyền trung ương Trung Quốc, mà còn từ các cơ quan do Bắc Kinh kiểm soát, các công ty nhà nước và các công ty tư nhân. Hệ thống vay mượn này phức tạp đến nỗi ngay cả các cơ quan quản lý Trung Quốc cũng không biết tổng số tiền đã được cho vay là bao nhiêu.

Trong những thập kỷ trước, hoạt động cho vay của Trung Quốc chủ yếu nhắm vào các chính phủ nước ngoài. Tuy nhiên, thông qua các dự án BRI, AidData nhận thấy “70% các khoản cho vay ra nước ngoài của Trung Quốc hiện hướng đến các công ty nhà nước, ngân hàng quốc doanh, các pháp nhân thành lập vì mục đích đặc biệt (SPV), công ty liên doanh và các tổ chức khu vực tư nhân”.

Các hoạt động cho vay thiếu minh bạch của Trung Quốc đã tạo ra khoảng 385 tỷ USD nợ ẩn – những khoản nợ không xuất hiện trên bảng cân đối kế toán của nước này.

Hoạt động cho vay ngoại bảng này là kết quả của các thỏa thuận BRI, vốn phức tạp và rối bòng bong. Các SPV, một loại công ty vỏ bọc, thường được tạo ra với mục đích duy nhất là vay tiền, để khiến các khoản tiền nằm ngoài bảng cân đối kế toán của công ty mẹ hoặc tổ chức chính phủ.

Phức tạp hơn nữa, Trung Quốc nắm giữ một lượng lớn vốn cổ phần ở các quốc gia không trả được nợ. Một dự án BRI ở Lào là ví dụ điển hình về cơ cấu nợ và vốn chủ sở hữu đầy khó hiểu này. Ba công ty nhà nước của Trung Quốc nắm phần lớn cổ phần trong một liên doanh của Lào, và liên doanh này nợ Trung Quốc 3,6 tỷ USD. Trên bảng cân đối kế toán, đây sẽ là khoản nợ của một công ty Trung Quốc.

Con đường tơ lụa hay Con đường tai hại?

Thực tế là, 35% các dự án bị BRI có liên quan đến tham nhũng, bóc lột lao động, ô nhiễm môi trường và các cuộc biểu tình. Nhiều dự án bị đình trệ và bị bỏ dở đang không thể tạo ra mức tăng GDP ở các nước thành viên BRI giống như lời hứa của Trung Quốc. Các ngành công nghiệp ở những nước này không được hưởng lợi từ việc xây dựng dự án. Chỉ 7,6% các dự án được trao cho công ty địa phương, trong khi 89% được thực hiện bởi doanh nghiệp Trung Quốc. Việc làm trong nước không được thúc đẩy khi mà BRI thường sử dụng lao động được đưa từ Trung Quốc sang.

Các nhà nghiên cứu môi trường nhận định rằng Trung Quốc đang hưởng lợi khi xuất khẩu khí thải carbon sang các nước BRI. Các nước chủ nhà đang sử dụng hết ngân sách carbon cho các dự án BRI. Điều này làm cho Trung Quốc trở nên giàu có hơn; trong khi làm tăng nợ của các nước chủ nhà.

Khi mà Trung Quốc đang nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm, thúc đẩy năng lượng xanh và năng lượng mặt trời, thì nước này lại xuất khẩu ô nhiễm sang các quốc gia khác. Ví dụ, Trung Quốc đã xây dựng một nhà máy điện than ở Campuchia. Lượng khí thải ròng toàn cầu vẫn giữ nguyên, nhưng phí phát thải của nhà máy này đã được chuyển từ Trung Quốc sang cho Campuchia.

Theo bà Kelly Sims Gallagher – giáo sư về chính sách năng lượng và môi trường tại Đại học Tufts, từ năm 2001 – 2016, Trung Quốc đã đầu tư vào 240 nhà máy điện than thông qua BRI. Trong số 50 nhà máy nhiệt điện than do Trung Quốc tài trợ, 58% sử dụng công nghệ than dưới chuẩn, gây ô nhiễm cao.

75% các dự án BRI sử dụng nhiên liệu hóa thạch, trong khi Trung Quốc đang phát triển mạnh các sản phẩm năng lượng sạch tại nước nhà. Ngay cả đường sắt cao tốc bán cho nước ngoài cũng tạo ra lượng khí thải cao hơn so với đường sắt đang được sử dụng ở Trung Quốc.

Tại sao có nhiều nước tham gia BRI đến vậy?

Các quốc gia đồng ý tham gia hiệp định BRI vì họ không thể vay ở nơi khác, và vì họ tin rằng mức tăng GDP mà các dự án sau khi hoàn thành tạo ra sẽ lớn hơn nghĩa vụ trả nợ. Trên thực tế, mức tăng trưởng GDP này không có thực. Một ví dụ là Pakistan. Theo các mô hình tăng trưởng được ‘vẽ ra’ trong BRI, Pakistan sẽ đạt mức tăng GDP là 5,18%. Hành lang Kinh tế Trung Quốc – Pakistan (CPEC) bắt đầu hoạt động vào năm 2015; nhưng kể từ năm 2018, GDP của Pakistan đã giảm liên tục, đạt mức thấp chưa từng thấy trong nhiều năm. Cảng Gwadar ở Pakistan, một dự án cơ sở hạ tầng trị giá hàng tỷ USD mà Trung Quốc đã đầu tư vào quốc gia này trong khuôn khổ Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường. (Ảnh: Amelie Herenstein / AFP / Getty Images)

Vào năm 2019, Ngân hàng Thế giới đã cố gắng xác định số lượng người thắng và kẻ thua từ BRI. Khi đưa ra quyết định tham gia hay không tham gia, các quốc gia đã sử dụng nhiều mô hình khác nhau để tính toán chi phí và lợi ích dự kiến. Tuy nhiên, Ngân hàng Thế giới đã cố gắng tạo ra một mô hình thống nhất, dựa trên thông tin địa lý, chi phí vận tải và chi phí xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng mới.

Qua đó, Ngân hàng Thế giới cho rằng các nước BRI sẽ có mức tăng GDP lên tới 3,4%. Tuy nhiên, bởi vì lợi ích thương mại không nhất thiết tương đương với mức đầu tư vào dự án, một số quốc gia sẽ phải chứng kiến nhiều tác động tiêu cực. Tất cả quốc gia BRI sẽ phải trả lại các khoản vay mà họ nợ Trung Quốc. Và trong khi nhiều quốc gia đang thua lỗ, Trung Quốc vẫn tiếp tục thu về lợi nhuận. Thặng dư thương mại năm 2020 của Trung Quốc với các nước BRI đạt 199,2 tỷ USD, chiếm 40,4% tổng thặng dư thương mại của Trung Quốc.

BRI không phải là một kế hoạch mang tính nhân văn như lời giới thiệu của ông Tập Cận Bình. AidData xác định rằng, thông qua BRI, Bắc Kinh đã đạt được 3 mục tiêu: Chuyển đổi USD kiếm được thông qua xuất khẩu thành các khoản cho vay ra nước ngoài, cung cấp việc làm cho lĩnh vực xây dựng và công nghiệp trong nước, và tạo ra thặng dư thương mại. Một xu hướng đáng lo ngại khác là 400 dự án BRI trị giá 8,3 tỷ USD có liên quan mật thiết đến quân đội Trung Quốc.

Tác giả Antonio Graceffo đã có hơn 20 năm làm việc tại châu Á. Ông tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng MBA của Đại học Giao thông Thượng Hải; và hiện là Giáo sư và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc. Ông viết bài cho nhiều phương tiện truyền thông quốc tế. Một số cuốn sách về Trung Quốc của ông gồm: Beyond the Belt and Road: China’s Global Economic Expansion (Đằng sau Vành đai và Con đường: Sự mở rộng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc); và A Short Course on the Chinese Economy (Khóa học ngắn hạn về kinh tế Trung Quốc).

Lê Minh

Theo The Epoch Times

Related posts