Mỹ – Việt xích lại gần nhau hơn

Asia Sentinel

Tác giả: David Brown

Song Phan, chuyển ngữ

10-9-2023

Tóm tắt: Sự vụng về của Bắc Kinh mở ra cơ hội cho hai cựu thù kết hợp sức mạnh

Đại sứ Marc Knapper và một số quan chức đại sứ quán khác mà tôi có dịp nói chuyện gần một năm trước, đã bày tỏ sự tin tưởng rằng, quan hệ Mỹ-Việt sẽ phát triển gần gũi hơn một cách thực chất. Tôi thấy dự đoán đó khó có thể tin được, vì bất kỳ sự nâng cấp nào trong mối quan hệ của Việt Nam với Mỹ chắc chắn sẽ chọc tức Bắc Kinh. Nếu chủ đề này xuất hiện, những người bạn Việt Nam thường lưu ý rằng, Mỹ là một đối tác chập chờn, dễ thay đổi lập trường. Họ có thể giữ lời, cũng có thể không. Quả vậy, cựu Tổng thống Donald Trump đã từ bỏ Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương được đàm phán gian khổ – khiến Việt Nam và 9 bên ký kết khác bị hụt hẫng – và Tổng thống Joe Biden cảm nhận được mối ác cảm của các công đoàn đối với hiệp định này, đã không làm gì thêm.

Trong khi đó, những người bạn Việt Nam này rõ ràng lưu ý rằng, Trung Quốc thường trực ở đó, hiện diện dày đặc ở biên giới phía bắc Việt Nam, và ở một mức độ đáng lo ngại, dọc theo bờ biển dài của Việt Nam và ở cả Lào và Campuchia lân cận. Nếu Bắc Kinh nhận thấy Hà Nội đang đi chệch khỏi quỹ đạo của mình thì họ có đủ phương tiện – kinh tế và quân sự – để bóp nghẹt Việt Nam. Và họ hỏi, liệu Washington có vượt qua được thách thức như vậy không.

Có lẽ chúng ta sẽ sớm biết. Bí mật được giấu kín nhất ở Washington là hôm nay, ngày 10/9, Joe Biden và các lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam sẽ công bố thỏa thuận thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, mang tính biểu tượng, tương đương với mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Nga.

Tôi đánh cuộc rằng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không đồng ý với một bước đi cực đoan như vậy. Với tư cách là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là người đối thoại chính với Tập Cận Bình. Và với tư cách là người đứng đầu trong cơ cấu quyền lực ở Hà Nội, ông là người điều khiển màn loại bỏ các lãnh đạo được coi là nghiêng về phía Mỹ, mới chín tháng trước: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh lúc đó.

Nói chung, và đặc biệt kể từ năm 2016, khi ông Trọng đè bẹp thách thức của thủ tướng đương nhiệm, cách tiếp cận chính sách đối ngoại của Việt Nam được điều chỉnh cẩn thận để tránh chọc giận Bắc Kinh. Với việc Trung Quốc kiên quyết thực thi các yêu sách chủ quyền vô căn cứ trên Biển Đông, mở rộng ảnh hưởng ở Lào và Campuchia, và rơi vào suy thoái kinh tế, những gì mà Chính quyền Biden đưa ra cho Việt Nam có thể ngày càng nghe có vẻ tốt hơn đối với các lãnh đạo Hà Nội – đặc biệt là vào thời điểm Bắc Kinh hoàn toàn bịt tai có chủ ý, chỉ vài ngày trước cuộc họp của Nhóm G20 ở New Delhi, đã tìm cách làm toàn bộ khu vực bất bình với việc công bố bản “bản đồ 10 đoạn” sửa đổi, mở rộng yêu sách của mình không chỉ đối với các khu vực lớn hơn ở Biển Đông, mà còn đến các vùng đất ở bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ và cao nguyên Aksai Chin.

Như Giáo sư Jonathan London viết trên blog ngày 8 tháng 9, “về cả kinh tế và an ninh, lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ và Việt Nam có mối liên kết hết sức chặt chẽ. Tái cấu trúc kinh tế ở Việt Nam đòi hỏi phải nâng cấp nhanh chóng năng lực của các nhà sản xuất trong nước, cũng như các khoản đầu tư dài hạn, hiệu quả, vào nền kinh tế và con người, có lẽ đặc biệt từ Mỹ. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ khả năng phòng thủ độc đáo của Mỹ”.

Khi đàm phán hiệp ước đối tác chiến lược toàn diện, cách Mỹ nhìn nhận Việt Nam dường như rất giống cách họ nhìn nhận Trung Quốc cách đây một thế hệ – một nguồn đối tác nhỏ cho các công ty Mỹ trong mối quan hệ sản xuất công nghệ cao đôi bên cùng có lợi. Thông báo của Nhà Trắng về chuyến thăm của Biden đề cập đến việc “thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế, tập trung vào công nghệ và định hướng đổi mới của Việt Nam (và) mở rộng… chương trình phát triển lực lượng lao động”. Nếu Hà Nội quản lý mọi việc một cách hợp lý, thành phố này sẽ ngày càng được ưa chuộng như một điểm đến của tư nhân Hoa Kỳ đầu tư và đặc biệt sẽ nâng cao nhanh chóng tay nghề của lực lượng lao động.

Với hiệp định đối tác chiến lược toàn diện Mỹ-Việt, cùng với các hiệp định tương tự gần đây được ký kết với Australia và Singapore, sẽ không ai ngạc nhiên khi thấy sự mở rộng nhanh chóng việc hợp tác an ninh. Mục đích chính của Đối thoại An ninh bốn bên, hiệp ước ngày càng hiện thực giữa Úc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hoa Kỳ, là an ninh các tuyến đường biển; Hà Nội đang ngăn chặn yêu sách giả trá của Trung Quốc đối với nguồn tài nguyên biển và năng lượng ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Các mục tiêu này được củng cố lẫn nhau. Không còn có thể phụ thuộc vào Nga về hệ thống vũ khí tiên tiến, Việt Nam sẽ tìm kiếm các đối tác mới để được trợ giúp mua sắm với giá khuyến mại. Đổi lại, Việt Nam có thể chấp nhận cho tàu bè các đối tác vào các bến cảng tuyệt vời, dọc theo bờ biển dài của mình.

Về mặt chiến lược, khi thể hiện quyết tâm mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và các quốc gia có cùng chí hướng, Hà Nội chấp nhận rủi ro và có tính toán kỹ lưỡng. Trung Quốc sẽ không ngoan ngoãn chấp nhận việc Việt Nam từ bỏ thế cân bằng giữa Bắc Kinh và Washington. Có thể Bắc Kinh cần khá nhiều thời gian, và có lẽ cần tới ban lãnh đạo mới, trước khi họ nhận ra rằng chính những nỗ lực bịt tai có chủ ý của họ nhằm thực thi ý chí của mình ở các vùng biển trong khu vực, đã đẩy ngay cả Việt Nam vào liên minh trên thực tế với những bên ủng hộ một Ấn Độ – Thái Bình Dương tự do và độc lập.

_______

Tác giả: David Brown là cựu quan chức ngoại giao Mỹ, có nhiều kinh nghiệm về Đông Nam Á. Ông là cộng tác viên thường xuyên của Asia Sentinel

Related posts