Tác giả: Bill Hayton
Song Phan chuyển ngữ
29-4-2025

Vào ngày 30 tháng 4, Việt Nam kỷ niệm ngày chính thức kết thúc một cuộc chiến. Nhưng cuộc chiến đó kéo dài bao lâu? Nó bắt đầu từ năm 1965 khi lính chiến Mỹ đến Việt Nam, năm 1960 khi giao tranh nổ ra ở miền Nam Việt Nam, năm 1945 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập với Pháp – hay thậm chí sớm hơn?
Trong thông điệp chính thức xung quanh cuộc diễu binh ngày 30 tháng 4, Việt Nam đang kỷ niệm ngày giải phóng “miền Nam” và thống nhất đất nước. Nhưng khi xe tăng đâm vào cổng Dinh Tổng thống ở Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng không chỉ kết thúc một cuộc đấu tranh quân sự mà còn là một cuộc đấu tranh chính trị, một cuộc đấu tranh đã bắt đầu từ đầu thế kỷ 20. Ngày nay, ở Việt Nam không thể thảo luận công khai cuộc đấu tranh chính trị đó, đơn giản là các cách diễn giải khác về lịch sử hiện đại của đất nước không được dung thứ.
Bi kịch của Việt Nam là cuộc đấu tranh chính trị này đã trở thành một cuộc nội chiến, và cuộc nội chiến này đã trở thành một phần của một cuộc chiến toàn cầu, lôi kéo các cường quốc – Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc – những nước mà ban lãnh đạo sẵn sàng trợ giúp và vũ trang cho các đối tác tại chỗ để phục vụ các mục tiêu rộng lớn hơn của họ. Cả hai bên trong cuộc nội chiến của Việt Nam đều từ các phong trào yêu nước. Sự chia rẽ của họ nằm ở ý thức hệ, vai trò của nhà nước trong xã hội, văn hóa, tôn giáo và nhiều vấn đề khác.
Điều này chưa được hiểu thật rõ. Ngay cả ngày nay, “Chiến tranh Việt Nam” thường được mô tả như một cuộc chiến giữa một quốc gia gọi là Bắc Việt và một quốc gia khác gọi là Nam Việt. Không phải vậy. Đó là cuộc chiến giữa hai nhóm chủ chốt chính trị, cả hai đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ đất nước, nhưng có tầm nhìn khác nhau về tương lai của nó. Hai tầm nhìn đó ban đầu được thể hiện qua hai người: Nhà cải cách tự do Phan Châu Trinh và nhà hoạt động cấp tiến Phan Bội Châu.
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cả hai ông đều vận động để chấm dứt ách thống trị của Pháp trên vùng đất mà lúc đó được gọi là “Đông Dương”. Sau Thế chiến Thứ nhất, Phan Châu Trình và một học trò của Phan Bội Châu là Hồ Chí Minh đã đưa đơn thỉnh nguyện tới các nhà lãnh đạo tại Hội nghị Hòa bình Versailles để đòi hỏi “tự do, bình đẳng và bác ái” cho Việt Nam. Yêu cầu của họ bị từ chối thẳng thừng. Việc Pháp từ chối trao cho các dân tộc Đông Dương những quyền mà họ hứa hẹn cho chính dân chúng của mình đã phá hủy cơ hội chấm dứt chế độ thực dân một cách hòa bình. Con đường tự do dẫn đến độc lập bị đóng lại và Hồ Chí Minh bắt đầu một hành trình chính trị hướng về chủ nghĩa cộng sản.
Trước năm 1919, một dòng tư tưởng dân tộc chủ nghĩa tự do của Việt Nam có thể đã trở thành chủ đạo. Sau đó nó bị mất uy tín, và khoảng trống chính trị được chủ nghĩa cộng sản lấp đầy. Đến thập niên 1920, có hai luồng ý kiến chính trị không thể hòa giải ở Việt Nam, đều bắt nguồn từ các ý thức hệ châu Âu: Những người yêu nước tự do và những người cộng sản, hai nhóm có sự thù hận sâu sắc với nhau. Một tương lai không có xung đột huynh đệ tương tàn giờ đây là bất khả.
Trong thập niên 1930 và 1940, với sự hậu thuẫn và che chở từ các đối tác ý thức hệ ở Trung Quốc, các nhà yêu nước thuần túy và cộng sản đã xây dựng mạng lưới và lực lượng quân sự của họ. Chính quyền thực dân Pháp vẫn từ chối nhượng bộ bất kỳ điều gì có ý nghĩa. Với việc ngăn chặn con đường cải cách, tự do dẫn đến độc lập, họ buộc ngày càng nhiều nhà yêu nước phải theo con đường cách mạng. Khi Thế chiến Thứ hai xảy ra và quân Nhật chiếm đóng Đông Dương, cả hai bên chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài. Nhưng chiến tranh kết thúc nhanh chóng, sau vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản. Tình cờ, những người cộng sản đã chuẩn bị lập một Quốc hội trong tuần tiếp theo và do đó cán bộ của họ đã sẵn sàng chiếm Hà Nội. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố độc lập cho nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, tức VNDCCH.
Đến lúc này, giao tranh giữa các phe phái Việt Nam đã bắt đầu. Vào giữa năm 1945, cán bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương bắt đầu ám sát các đối thủ của họ thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tự do – yêu nước và các đảng Trotskyite cánh tả. Đây là lúc “Chiến tranh Việt Nam” thực sự bắt đầu. Cuối năm đó, quân Pháp đến giành lại quyền kiểm soát và lập ra chính quyền đối thủ. Sân khấu cho cái mà chúng ta gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất” đã được dựng lên.
Tuy nhiên, sẽ sai lầm nếu coi cuộc chiến này chỉ đơn thuần là giữa “người Pháp” với “người Việt”. Có rất nhiều người Việt không muốn thấy cộng sản chiến thắng. Điều này vẫn đúng ngay cả sau khi VNDCCH đánh bại lực lượng Pháp tại Điện Biên Phủ vào năm 1954. Trận chiến đó được theo sau bởi một loạt các thỏa thuận quốc tế, gọi là Hiệp định Genève. Hiệp định này quy định rằng, các lực lượng quân sự của hai bên tranh chấp chủ quyền Việt Nam phải rút về phía bắc và phía nam của một ranh giới “tạm thời” tại vĩ tuyến 17 cho đến khi diễn ra một cuộc bỏ phiếu, dự kiến trong vòng hai năm, để quyết định ai sẽ lãnh đạo đất nước thống nhất.
Việt Nam chưa bao giờ bị “chia cắt” theo cách, chẳng hạn như Anh chia cắt Ấn Độ. Khu vực phía bắc vĩ tuyến 17 được đặt dưới sự kiểm soát tạm thời của VNDCCH, và khu vực phía nam dưới sự kiểm soát của Quốc gia Việt Nam – được Pháp thành lập vào năm 1949 với sự hợp tác của một số nhà yêu nước. Không bên nào coi sự phân chia này là hết chuyện. Cả hai đều tuyên bố quyền cai trị trên toàn bộ đất nước. Nhưng hệ quả là, gần một triệu người Việt Nam bình thường đã rời bỏ nhà cửa ở miền Bắc, vì lo sợ cuộc sống dưới chế độ cộng sản.
Sau khi người Pháp rời đi vào năm 1955-1956, một ban lãnh đạo Việt Nam mới nắm quyền kiểm soát miền Nam, do Ngô Đình Diệm đứng đầu, tuyên bố thành lập nước “Việt Nam Cộng hòa” (VNCH). Với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, ông hủy bỏ cuộc bầu cử theo quy định của Hiệp định Genève và bắt tay đè bẹp mạng lưới cộng sản ở miền Nam. Chính sự thành công của ông trong việc này đã thúc đẩy lãnh đạo cộng sản đồng ý khởi động lại cuộc đấu tranh vũ trang vào năm 1960. “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai” bắt đầu.
Khi giao tranh leo thang, các nhà bảo trợ của hai bên đổ thêm nhiều nguồn lực vào cuộc xung đột. Nga và Trung Quốc (khi thì đồng lòng, khi thì xung khắc) ủng hộ VNDCCH, trong khi Hoa Kỳ và một số đồng minh hậu thuẫn VNCH. Dân chúng Việt Nam bị kẹt ở giữa. Không ai biết chính xác bao nhiêu người đã bị giết chết. Ước tính dao động từ hai đến ba triệu người.
Nhiều thêu dệt chính trị phải được duy trì bởi các bên trong cuộc chiến này. Người Mỹ tự cho rằng mình đang ủng hộ một quốc gia gọi là “Nam Việt” chống lại một quốc gia khác gọi là “Bắc Việt”. Trong khi đó, lãnh đạo cộng sản ở miền Bắc vờ rằng lực lượng kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam, “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam” (MTGP), và “Quân Giải phóng miền Nam” (thường được gọi là Giải phóng quân hoặc GPQ), là tự lập. Thực tế, MTGP và GPQ đều do VNDCCH kiểm soát.
Khi giao tranh tiếp diễn, “bàn tay dẫn dắt” của VNDCCH ngày càng lộ rõ. Đến năm 1965, lực lượng của họ, “Quân đội Nhân dân Việt Nam” (QĐND), đã tham chiến tại VNCH nhưng dưới vỏ bọc hỗ trợ GPQ. Đến năm 1975, QĐND công khai dẫn đầu cuộc tiến quân cộng sản vào Sài Gòn. Tuy nhiên, khi hai xe tăng của QĐND húc sập cổng dinh Tổng thống vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, các chỉ huy của họ cẩn thận chắc chắn rằng chúng treo cờ của MTGP, chứ không phải cờ VNDCCH. Việc tô vẽ rằng đây là một cuộc kháng chiến do miền Nam lãnh đạo cần được tiếp tục.
Chính thức, MTGP đã phát triển thành “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”, sau đó nắm quyền ở Sài Gòn. Cũng như MTGP, đây là một chế độ cộng sản do VNDCCH kiểm soát. Chính phủ cách mạng lâm thời sau đó đổi tên thành “Cộng hòa miền Nam Việt Nam”. Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, nhà nước bình phong này mới chính thức đồng ý tự giải thể và sáp nhập với VNDCCH để thành lập “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.
Vì vậy, khi đám đông tụ tập ở Sài Gòn mỗi dịp 30 tháng 4, ngày kỷ niệm họ đang đánh dấu không thật sự là ngày “thống nhất” chính thức của Việt Nam mà là ngày cuối cùng VNCH ở miền Nam bị thua về quân sự. Hiểu điều này là quan trọng bởi vì điều mà lãnh đạo hiện nay của đất nước quan tâm là quyền cai trị không bị thách thức của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
ĐCSVN không thể chấp nhận ý niệm rằng VNCH trước đây có bất kỳ tính hợp pháp chính trị nào. Trong cách nhìn của họ, Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc đấu tranh giữa “nhân dân Việt Nam” và Hoa Kỳ; không có chuyện “nội chiến”. Các cựu lãnh đạo của VNCH chỉ là “con rối của ngoại bang” và không thể có “hòa giải” với các cựu thù. Điều mà lãnh đạo Việt Nam hiện nay đòi hỏi là sự thừa nhận rằng VNCH đã sai và phía cộng sản luôn đúng.