Làm sao để có hoà giải – hoà hợp dân tộc

 Anne Nguyễn

Nhân đọc loạt bài của PGS. TS Nguyễn Phương Mai trên BBC về hoà giải, hoà hợp dân tộc, là một người sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, lại có dịp tiếp xúc với cộng đồng người Việt ở nhiều quốc gia, mình cũng muốn chia sẻ góc nhìn về vấn đề mà đa số người Việt đều mong mỏi. 

Nếu hỏi Việt Nam đã từng có hòa hợp hòa giải chưa thì chắc chắn chúng ta đều đồng ý là Việt Nam chưa từng có hòa giải. Chiến tranh chỉ kéo dài 20 năm nhưng 50 năm đã trôi qua, hơn gấp đôi số thì giờ đó, nhưng những vết thương của chiến tranh vẫn in hằn trong mỗi người ở cả hai miền. Chỉ cần hỏi bất kỳ một người Việt nào trên 20 tuổi dù sống ở Việt Nam hay ở nước ngoài chúng ta đều nhận thấy một sự kỳ thị giữa người Bắc với người Nam, giữa người sinh ra và lớn lên dưới chính thể xã hội chủ nghĩa với những người đã từng sống ở miền Nam trước 1954, đặc biệt là với những người đã di tản ra nước ngoài sau sự kiện 1975.

Di chứng chiến tranh giữa người Việt với nhau hiện nay tồn tại dưới rất nhiều hình thức. Đầu tiên là sự nghi kị, phân biệt đối xử giữa những người được coi là phe cờ đỏ với những người phe cờ vàng. Có lẽ về mặt kinh tế là nhẹ nhàng nhất, do chính sách của nhà nước khi cố gắng thu hút vốn đầu tư từ những doanh nghiệp Việt kiều ở nước ngoài và vì tính hám lợi cuộc con người nói chung nên trong làm ăn thì miễn có lợi là được chọn, không phân biệt phe phái. Tuy nhiên về mặt chính trị thì phức tạp hơn rất nhiều. Tôi đã từng nghe câu chuyện của những người dấn thân theo cách mạng ở phía Nam như chị Trần Tố Nga, chị Bùi Trân Phượng hay gần đây nhất là cuốn hồi ký Gánh gánh Gồng gồng của bà Xuân Phượng và nhiều người khác, những con người xuất thân từ tầng lớp tri thức, được học hành tử tế, thậm chí được du học, nếu họ yên tâm làm việc dưới chế độ cũ chắc chắn sẽ có một cuộc sống an nhàn đầy đủ. Tuy nhiên họ đã bỏ tất cả để ra chiến khu theo cách mạng hoặc hoạt động bí mật ở nước ngoài, chấp nhận mọi rủi ro  vì tin vào sứ mệnh giải phóng dân tộc và vào lời tuyên truyền về sự đối xử công bằng của cách mạng. Thực tế đã chứng tỏ, họ luôn bị kỳ thị nghi kị ngay trong thời gian hoạt động vì cho rằng không bỏ được tác phong tiểu tư sản, không đủ niềm tin vào cách mạng… Đến khi cách mạng thành công, họ cũng không hề được tưởng thưởng xứng đáng vì thành phần lý lịch, vì không tỏ ra sắt máu khi đối xử với những người bên kia… Ngay cả điệp viên Phạm Xuân Ẩn lẫy lừng thế giới cũng phải sống một cuộc đời bị quản chế, không được tham gia vào những hoạt động công khai, thậm chí ông và con ông đều không được phép đi Mỹ. Đến những người có công với cách mạng còn bị đối xử như vậy thì những người làm việc cho phía bên kia còn bị cư xử tồi tệ đến đâu. Sự nghi kị ấy kéo dài cho đến bây giờ chưa từng chấm dứt.

Về văn hóa nghệ thuật càng rõ ràng hơn. Hơn 50 năm đã trôi qua nhưng những tác phẩm văn hóa nghệ thuật trước năm 1975 vẫn không hề được đối xử công bằng. Đơn giản nhất là những bài hát trước 1975 dù của những nhạc sĩ đã hợp tác với cách mạng như Trịnh Công Sơn, nếu muốn đưa ra công diễn vẫn phải xin phép. Nếu chỉ lọt một bài chưa được cấp phép dù nội dung bài ấy hoàn toàn vô hại thì đơn vị tổ chức cũng bị phạt rất nặng. Đã có rất nhiều đề xuất của các nghệ sĩ là chỉ nên đưa ra danh sách các bài hát cấm biểu diễn, còn lại thì được biểu diễn thoải mái, thế nhưng đến bây giờ đề nghị này vẫn chưa được chấp nhận.

Tất cả những nghi kị ấy sau hơn nửa thế kỷ đã ăn sâu vào đầu những người Việt Nam, trở thành vô thức ngay cả với thế hệ sinh ra và lớn lên sau chiến tranh. Tôi quan sát thấy những du học sinh Việt Nam ra nước ngoài, đến những khu vực có đông Việt kiều, vẫn luôn nghi ngại khi tiếp xúc với những người ra đi sau 1975 và ngược lại. Điều này dẫn đến cộng đồng người Việt ở nước ngoài rất phân tán, không đoàn kết vì không thể tin cậy nhau.

Đáng sợ nhất là sự nghi kỵ nặng nề nhất không phải là ở những thế hệ đã trải qua chiến tranh hoặc những khó khăn thời hậu chiến mà lại là ở thế hệ 9x trở đi, những người không hề chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc chiến, không hiểu được sự tàn khốc của nó nhưng chính vì thế lại dễ dàng bị sự hận thù che mờ mắt.

Một ví dụ là tháng 2/2023, Hanni Phạm, ca sĩ người Úc gốc Việt và là thành viên nhóm nhạc Hàn Quốc NewJeans, đã bị nhiều người kêu gọi tẩy chay sau khi có người phát hiện trang mạng xã hội của thành viên gia đình cô treo cờ vàng! Cô ấy sống ở nước ngoài, bố mẹ cô ấy là người của phía bên kia, việc họ làm gì ở nhà họ là quyền không ai có thể can thiệp. Hơn nữa, lá cờ ấy cũng là một phần của lịch sử Việt Nam, như cờ của thời Trần hay thời Nguyễn vậy, vì sao lại căm thù nó đến thế? Thậm chí nhiều nghệ sĩ Việt Nam hoàn toàn không có lỗi lầm gì, chỉ vì có lần được mời đến biểu diễn ở một sân khấu có treo cờ vàng (dù có khi đã cách đây 10 năm) cũng bị săn đuổi!

Nguyên nhân đầu tiên của tình trạng đáng buồn này là sự tuyên truyền nhồi sọ của chính quyền và nền giáo dục thiếu tính bao dung, bóp méo lịch sử. Từ khi còn học tiểu học, trẻ em đã được dạy về lòng căm thù không chỉ với giặc ngoại xâm mà cả với chính những đồng bào không cùng chính kiến của mình, gọi họ là Việt gian, là nguỵ, là kẻ bán nước. Những nhân vật lịch sử có công với đất nước như Phan Thanh Giản hay Ngô Đình Diệm có thể bị trẻ con gọi xách mé là thằng nọ thằng kia… Những mất mát trong chiến tranh sẽ được nâng tầm thành tội ác và quy tội cho phe đối lập rồi dạy trẻ căm thù, bất chấp nguyên tắc của giáo dục là yêu thương và bao dung. Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi những thế hệ như vậy khi trưởng thành dễ dàng căm hận mọi đối tượng mà họ cho là sai trái hoặc có lỗi với họ mà trớ trêu thay, rất nhiều người trong đó là các quan chức chính quyền đã nhồi nhét vào đầu họ lòng căm thù ấy!

Một điều rất đáng ngạc nhiên là các quan chức chính quyền Việt Nam có thể bắt tay làm việc rất hữu nghị với các kẻ thù đã từng trực tiếp đối mặt trên chiến trường, thậm chí giam cầm họ như người Pháp, Nhật hay Mỹ. Hệ thống truyền thông chính thống cũng có thể kêu gọi người dân khép lại quá khứ – hướng tới tương lai, cho phép họ ra đường vẫy cờ chào đón lãnh đạo các quốc gia cựu thù nhưng lại kìm kẹp, kỳ thị những đồng bào của mình từng làm việc cho phía bên kia??? Chính quyền cho phép người Mỹ tìm kiếm thi hài lính Mỹ mất tích, cho phép họ tổ chức nghi lễ đưa tang nhưng lại làm ngơ, thậm chí tức giận trước lời đề xuất tổ chức lễ cầu siêu cho binh lính cả hai phía của thầy Thích Nhất Hạnh! Những hành vi xúc phạm của một số người trẻ với lá cờ của Việt Nam Cộng hòa trong Bảo tàng quân sự Việt Nam hồi tháng 11/2024 không hề bị nhân viên bảo tàng nhắc nhở, những tấm ảnh họ khoe khoang trên mạng xã hội không hề bị nhắc nhở hay xử lý! Cứ như vậy, làm sao đám trẻ trâu ấy không tin tưởng vào lẽ phải của mình được!

Song song với sự tuyên truyền giáo dục phổ cập đến mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp dân chúng như vậy là sự trừng phạt với những người dám thách thức những sự tuyên truyền ấy. Không chỉ những người trong hệ thống, nhà báo, giáo viên, văn nghệ sĩ bị kiểm soát mà cả những người dân thường cũng bị quản lý thông qua mạng lưới tổ dân phố, cơ quan hay là mạng xã hội.

Văn hoá Việt Nam ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến sự chậm chạp trong tiến trình hoá giải. Việt Nam là nước có nền văn hoá tập thể, tính cá nhân ít được coi trọng, vì thế người dân có thói quen tuân thủ ý muốn của chính quyền, ít người dám giữ ý kiến độc lập và nếu có cũng sẽ bị những người xung quanh phản đối, thậm chí báo cáo với chính quyền. Xã hội ít sự công bằng nên người dân “thấp cổ bé miệng” ít có cơ hội thể hiện quan điểm công khai hoặc chất vấn chính quyền.

Việc phổ cập Internet và mạng xã hộiít nhiều đã giúp những trào lưu tiến bộ ở nước ngoài có điều kiện tác động đến tư tưởng của người dân trong nước, nhất là trong giai đoạn cuối 90 đầu 2000 khi Việt Nam mới mở cửa. Tuy nhiên, sau đó nhà nước tăng cường quản lý, thậm chí xâm nhập vào các nhóm trên mạng XH, tạo ra những nhóm như Tifosi, Comcom… để thao túng tư duy người dùng, vì thế ảnh hưởng này bị hạn chế, thậm chí đảo ngược lại. Có thể quan sát qua những tranh cãi trên mạng về cuộc chiến Ucraina, hay vụ bầu cử Mỹ vừa qua.

Với thực trạng như vậy, khi tôi trao đổi với bạn bè ở nhiều nơi trên thế giới, mọi người đều nói nếu thực tâm muốn hoà giải thì trước hết nhà nước phải thay đổi về chính sách hoà giải, chấp nhận Việt Nam Cộng hoà  như một giai đoạn tất yếu của lịch sử, lấy dân tộc làm trọng, trên cơ sở đó đổi mới giáo dục và tư duy tuyên truyền, bao dung với sự khác biệt, từ đó có những chương trình cụ thể hướng tới sự hoà giải. Những ví dụ ở Nam Phi hay Rwanda đều cho thấy việc hoà giải phải bắt đầu từ chính quyền. Tuy nhiên ta biết ở Việt Nam điều này rất khó, nếu không muốn nói là chỉ là giấc mơ. Vừa qua trong diễn văn của Tổng bí thư Tô Lâm dù có nhắc đến việc “Khép lại quá khứ, tôn trọng khác biệt, hướng tới tương lai” nhưng vẫn nhấn mạnh đến chiến thắng, đến tự hào, thứ chắc chắn khoét sâu vào nỗi đau của phía bên kia và không có lời nào cụ thể về con đường hoà giải cả. Những vụ bắt bớ, đuổi việc những người chỉ có vài lời phàn nàn về sự bất tiện trong phô trương của người chiến thắng đến đời sống của họ không thể xây dựng được lòng tin vào thiện chí hoà giải của chính quyền.

Các cá nhân có thể hoà giải bằng cách tìm hiểu về quá khứ qua sách vở, phim ảnh, lắng nghe câu chuyện của những người trực tiếp trải qua, từ đó biết đặt mình vào vị thế của người phía bên kia, có lòng trắc ẩn với đồng bào của mình thì từ đó có thể hoà giải về mặt cá nhân. Tuy nhiên, nếu ý thức hệ căm thù vẫn được nhà nước cổ suý là bằng chứng của lòng yêu nước thì hiệu ứng của những nỗ lực cá nhân sẽ rất hạn chế và cuộc chiến trong tâm thức của người Việt còn lâu mới chấm dứt được!

Anne Nguyễn, tháng 4/2025

Ghi chú của Diễn Đàn Khai Phóng: Anne Nguyễn là người sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, đi nhiều, hiểu rộng, tiếp xúc với nhiều lớp người trong nhiều nước khác nhau, trong thời kỳ sinh viên, nghiên cứu sinh, cũng như sau này trong thời gian công tác để phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Vì thế, ý kiến của Anne Nguyễn rất sâu sắc, có tinh thần xây dựng và rất đáng để tham khảo.

Nguồn: https://diendankhaiphong.org/lam-sao-de-co-hoa-giai-hoa-hop-dan-toc/

Related posts