Ba ‘trụ cột chiến lược’ để ngăn chặn chiến tranh ở Đông Á

Trần Phong

Phi công máy bay chiến đấu trong cuộc tập trận ở Tân Trúc, Đài Loan, vào tháng 1 năm 2019 (Ảnh: Reuters).

Kể từ khi cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraine bắt đầu vào ngày 24 tháng 2, ba nhân vật chính trong tranh chấp về địa vị của Đài Loan – Trung Quốc, Mỹ và chính Đài Loan – đã cố gắng rút ra những bài học hữu ích có thể áp dụng cho một cuộc xung đột quân sự tương tự trong tương lai.

Đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, chiến thuật của Putin và cuộc đấu tranh nhằm đánh bại các lực lượng Ukraine có thể đã thuyết phục các lãnh đạo Trung Quốc về sức mạnh răn đe hạt nhân và tầm quan trọng của an ninh kinh tế.

Với sự thận trọng của NATO trong việc hỗ trợ Ukraine bị coi là sản phẩm của nỗi lo về một cuộc chiến tranh hạt nhân với Nga, Bắc Kinh có thể quyết định rằng việc xây dựng một kho vũ khí hạt nhân lớn và nâng mức tỷ trọng lên mức thảm khốc sẽ giúp ngăn chặn Mỹ can thiệp quân sự vào kịch bản Đài Loan.

Bắc Kinh cũng sẽ lưu ý rằng về mặt kinh tế, những nỗ lực của Putin nhằm chống lại các lệnh trừng phạt đối với nền kinh tế Nga là không đủ. Ví dụ, ông đã để lại 300 tỷ USD, gần một nửa dự trữ ngoại hối của Nga trong các ngân hàng phương Tây trước chiến tranh, khiến cho các khoản tiền này bị đóng băng khi xe tăng của quân đội Nga tràn vào Ukraine.

Nếu Bắc Kinh áp dụng những bài học này, thì khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh nhằm chinh phục Đài Loan trong ngắn hạn và trung hạn sẽ thấp hơn vì Trung Quốc sẽ mất nhiều năm để xây dựng một kho vũ khí hạt nhân đủ lớn để đạt được khả năng hủy diệt so với Mỹ.

Việc tránh những sai lầm kinh tế mà Putin đã mắc phải cũng cần có thời gian, đòi hỏi Trung Quốc phải chuyển nền kinh tế toàn cầu hóa sang nền kinh tế thời chiến. Nhưng một khi Trung Quốc đạt được cả hai mục tiêu, một cuộc chiến tranh giành Đài Loan sau đó sẽ trở nên vừa có khả năng xảy ra vừa đáng sợ đến mức không thể tưởng tượng được.

Đối với các nhà lãnh đạo ở Đài Bắc và Washington, thành công của Ukraine trong việc triển khai tên lửa chống tăng và phòng không di động rất có thể đã củng cố quan điểm rằng Đài Loan nên đầu tư vào các năng lực tương tự thay vì các máy bay chiến đấu phản lực tiên tiến tốn kém.

Lầu Năm Góc cũng có thể coi cuộc chiến Ukraine của Putin là một thất bại trong việc răn đe đối với phương Tây, khiến họ kết luận rằng, khi nhìn lại, sự hỗ trợ quân sự lớn hơn cho Ukraine trước cuộc chiến có thể khiến Putin phải suy nghĩ kỹ trước khi hành động. Và về mặt kinh tế, trường hợp tách khỏi Trung Quốc thậm chí còn trở nên hấp dẫn hơn bởi vì việc duy trì nguyên trạng sẽ chỉ giúp củng cố nền kinh tế và quân đội Trung Quốc.

Mặc dù những bài học này có vẻ hợp lý theo nghĩa hẹp, nhưng chúng không phải là những bài học phù hợp để rút ra từ cuộc chiến Ukraine.

Cuộc xâm lược Ukraine đã dạy chúng ta rằng thế giới sẽ được phục vụ tốt hơn bằng cách học cách ngăn chặn chiến tranh ngay từ đầu thay vì tập trung vào cách chiến đấu và giành chiến thắng trong một cuộc chiến trong tương lai trên eo biển Đài Loan.

Một cuộc xung đột như vậy sẽ gây ra sự tàn phá to lớn đối với Đài Loan và các khu vực ven biển giàu có của Trung Quốc và thậm chí có thể leo thang thành một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Trung Quốc.

Một chiến lược toàn diện nhằm ngăn chặn chiến tranh ở Đông Á phải dựa trên ba trụ cột: răn đe quân sự, can dự ngoại giao và khống chế khủng hoảng.

Duy trì khả năng răn đe quân sự hiệu quả là điều cần thiết trong việc ngăn chặn chiến tranh ở eo biển Đài Loan. Việc Mỹ triển khai các vũ khí tiên tiến hơn và các lực lượng có năng lực ở Đông Á và liên minh bán quân sự của Bộ tứ bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ sẽ là trọng tâm của nỗ lực này.

Đầu tư mở rộng của Đài Loan vào khả năng quốc phòng của họ sẽ rất hữu ích, nhưng chỉ riêng khả năng răn đe quân sự thì không có ý nghĩa quyết định vì Trung Quốc sẽ phản ứng bằng việc xây dựng quân đội của chính họ.

Đó là lý do tại sao can dự ngoại giao hoặc chính trị cũng quan trọng như răn đe. Kể từ khi Mỹ-Trung tái thiết nửa thế kỷ trước, hòa bình và ổn định ở eo biển Đài Loan đã được củng cố bởi cả ưu thế quân sự của Mỹ và sự hiểu biết cơ bản về tình trạng của Đài Loan. Nhưng ngày nay, sự hiểu biết chính trị này đã hoàn toàn sụp đổ.

Trung Quốc đổ lỗi cho Đảng Dân chủ Tiến bộ cầm quyền của Đài Loan, đảng từ chối cái gọi là Đồng thuận năm 1992 đạt được giữa Đài Bắc và Bắc Kinh ba thập kỷ trước thừa nhận rằng chỉ có một Trung Quốc nhưng hai bên không đồng ý về ý nghĩa của “một Trung Quốc”.

Dưới con mắt của Mỹ, Trung Quốc đang thay đổi hiện trạng thông qua cưỡng chế và từ bỏ cam kết thống nhất hòa bình. Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ việc sử dụng vũ lực. Đồng thời, Trung Quốc tin rằng Mỹ không chỉ rút ruột “chính sách Một Trung Quốc” mà còn giải quyết một cách hiệu quả theo hướng ngăn chặn Trung Quốc không bao giờ đạt được thống nhất với Đài Loan.

Mặc dù không chắc ba nhân vật chính có thể đạt được hiểu biết chính trị mới trong một môi trường đầy thù hận và ngờ vực hay không, nhưng họ vẫn cần tăng cường các nỗ lực ngoại giao để biết điểm mấu chốt của nhau là gì và tìm ra một phương thức mới.

Khi Mỹ, Trung Quốc và Đài Loan tăng cường khả năng quân sự của mình, nguy cơ xung đột ngẫu nhiên sẽ khó tránh khỏi. Họ bắt buộc phải phát triển các cơ chế quản lý khủng hoảng hiệu quả.

Trong nhiều năm, lầu Năm Góc đã cố gắng đề nghị Quân đội Giải phóng Nhân dân PLA phát triển các cơ chế như vậy, nhưng chỉ đạt được thành công khiêm tốn. Do Bắc Kinh có lợi ích lớn trong việc ngăn chặn một cuộc xung đột ngẫu nhiên, ngoài tầm kiểm soát, PLA nên hợp tác hơn nữa với quân đội Mỹ trong việc quản lý một cuộc khủng hoảng trong tương lai.

Nếu bài học quan trọng đối với Trung Quốc, Đài Loan và Mỹ từ cuộc chiến ở Ukraine cho đến nay là một cuộc chiến ở eo biển Đài Loan có khả năng xảy ra nhiều hơn, thì họ nên học nhiều càng sớm càng tốt. Thay vào đó, những gì họ phải làm là phát triển một chiến lược mới để ngăn chặn chiến tranh leo thang.

Theo Asian.nikkei
Văn Sơn

Related posts