Ukraine đánh thức nhân loại, trừ Cộng sản Việt nam

Trần Trung Đạo

21-4-2022

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 (ảnh Thanh Niên)

Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga đã làm thay đổi vị trí chiến lược của nhiều quốc gia trên chính trường thế giới cũng như buộc nhiều quốc gia phải thay đổi đường lối đối ngoại để thích nghi với xu hướng thời đại.

Xu hướng của thời đại ngày nay là phát triển dân chủ và hòa bình chống lại các cơ chế độc tài chuyên chính với tham vọng bành trướng.

Ngày 17-3-1948, phát biểu trước lưỡng viện quốc hội Mỹ, TT Harry Truman giải thích lý do phải “bao vây Liên Xô”. Theo tổng thống thứ 33 của Mỹ, “nguyên nhân chính là do một quốc gia đã không chỉ từ chối hợp tác để thiết lập một nền hòa bình công bằng và danh dự mà thậm chí tệ hại hơn, đã tích cực tìm cách ngăn chặn điều đó”. (Special Message to the Congress on the Threat to the Freedom of Europe, March 17, 1948, Truman Library).

Mặc dù quốc hội Mỹ lần thứ 80 do đảng Cộng Hòa chiếm đa số nhưng họ cũng đã ủng hộ TT Truman (Dân Chủ).

Ngoại trừ năm nước CS theo chủ nghĩa Lenin không Mác, phong trào CS thế giới đã qua và câu nói của TT Truman dường như cũng đã bị lãng quên đi. Nhưng không. Mới đây cũng tại quốc hội Hoa Kỳ, nhiều phát biểu gần như lập lại nguyên văn câu nói của TT Truman chỉ thay chữ Liên Xô bằng chữ Nga và kết quả đạo luật “Bảo Vệ Chủ Quyền Ukraine” ra đời. Điều thứ hai trong đoạn hai của đạo luật viết: “Sự xâm lược và ảnh hưởng có ý định thù địch của Chính phủ Liên bang Nga và các tổ chức thân cận của họ ở Ukraine là mối đe dọa đối với chủ quyền dân chủ của Ukraine”. (Defending Ukraine Sovereignty Act of 2022).

Một ngày không xa, câu nói của TT Truman cũng sẽ được nghe lần nữa tại một phiên họp khoáng đại của quốc hội Hoa Kỳ và nhóm chữ “một quốc gia” sẽ được hiểu là “Trung Quốc”.

Chính trường quốc tế là một không gian đầy sinh động. Những quan điểm “bạn và thù”, “đồng minh và đối nghịch” thay đổi theo từng hiệp định và ngay cả theo từng chọn lựa chính trị của lãnh đạo một quốc gia.

Những ai học môn sử lịch sử thế giới bậc trung học ở miền Nam trước 1975 chắc còn nhớ bài học sau đây. Ngày Chủ Nhật, 28-6-1914, Đại Quận Công Archduke Franz Ferdinand, người sẽ kế vị bác của mình để trở thành hoàng đế Đế Quốc Áo-Hung, bị một sinh viên người Bosnia Serb tên là Gavrilo Princip bắn chết tại Sarajevo. Sự kiện này được lịch sử thế giới ghi nhận như điểm khởi đầu cho Đại Chiến hay còn gọi là Thế Chiến Thứ Nhất.

Tuy nhiên, giống như hỏa diệm sơn, biến cố đó chỉ là điểm vỡ của những xung đột gây tác động dây chuyền suốt nhiều thế kỷ. Trong hai thế kỷ trước đó, nhiều liên minh quân sự được ký kết giữa các quốc gia lớn nhỏ như Liên Minh Nga-Ottoman 1700, Liên Minh Ba Nước Đức, Áo-Hung, Ý (Triple Alliance) 1882 chẳng hạn.

Vô số bài học trên thế giới cho thấy, không phải nước lớn nào cũng chiếm đoạt nước nhỏ dễ dàng. Nếu một quốc gia có được hai yếu tố (1) nội lực vững mạnh và (2) quốc tế ủng hộ quốc gia đó dù thua những trận đầu vẫn sẽ thắng trận cuối cùng quyết định.

Năm 1939, Phần Lan dân số chỉ vỏn vẹn 3.6 triệu người nhưng chiến đấu anh dũng trong Chiến Tranh Mùa Đông (Winter War) chống lại quân đội Liên Xô đông gấp trăm lần. Lòng yêu nước, yêu tự chủ và dân chủ của dân tộc Phần Lan giành được cảm tình của đa số nhân loại. Hội Quốc Liên (League of Nations) chẳng những lên án Liên Xô xâm lược Phần Lan, mà còn trục xuất Liên Xô ra khỏi tổ chức quốc tế này. Chiến Tranh Mùa Đông năm 1939 đã làm Stalin lo ngại và từ bỏ tham vọng chiếm Phần Lan lần nữa sau Thế Chiến Thứ Hai dù đã nuốt hết vùng Baltics và Đông Âu.

Chính sách đối ngoại của một quốc gia chỉ đạo cho các mục tiêu chung của quốc gia đó trong quan hệ với các quốc gia khác bằng phương tiện ngoại giao.

***

Tại Việt Nam, Phạm Minh Chính, thủ tướng CSVN, một thời gian ngắn trước khi Nga xâm lăng Ukraine đã phát biểu về chính sách đối ngoại của CSVN như sau: “Chúng ta không ‘chọn bên’ mà chọn lẽ phải, xu hướng thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển”. (“Chúng ta không chọn bên mà chọn lẽ phải”, Thanh Niên, 16-12-2021).

Sau khi Nga xâm lăng Ukraine cuối tháng 2-2022, CSVN vẫn giữ quan điểm “chọn lẽ phải” này.

“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là bốn triệu người Ukraine chỉ trong vòng hai tháng đã bị Nga đẩy ra khỏi căn nhà riêng của họ để sống chen chúc và thiếu thốn trong các trại tị nạn ở Ba Lan, Romania, Hungary và các quốc gia lân cận?

“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là hàng trăm ngàn ngôi nhà Ukraine bị thiêu rụi, nhiều thành phố Ukraine bị san bằng, nhiều ngàn người Ukraine bị bom đạn Nga giết và chôn chung trong các ngôi mộ tập thể, nhiều em bé Ukraine chưa sinh đã chết khi còn trong bụng mẹ?

Dù với tiêu chuẩn đạo đức nào, hành động của Nga đối với Ukraine là hành động xâm lược trắng trợn và bản thân Putin theo tinh thần của Geneva Convention và nội dung “8 vi phạm” được LHQ nêu ra là một tội phạm chiến tranh.

Nhưng CSVN đã gạt qua bên mọi phản ứng từ phía người dân, mọi giá trị, tiêu chí đạo đức căn bản, mọi công pháp quốc tế và viễn ảnh một Việt Nam bị cô lập theo Nga chỉ để lấy lòng quan thầy Trung Cộng (TC).

CSVN rập khuôn theo cách bỏ phiếu của TC còn trơ trẽn hơn so với cách Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan đối xử với Nga.

Dù trong cùng một tổ chức – Tổ Chức Liên Minh An Ninh Tập Thể (Collective Security Treaty Organization ) do Nga chế ngự, bốn quốc gia cận biên giới này đã không ủng hộ Putin trong quyết nghị LHQ ngày 2-3-2022. Đó là những cái tát vào mặt Putin kiêu ngạo. Ít ra lãnh đạo bốn nước nhỏ này còn có chút ý thức về chủ quyền đất nước dù sự nghiệp chính trị và cả sinh mạng cá nhân của họ nằm trong tay Putin. Hành động vắng mặt tại buổi bỏ phiếu ngày 2-3-2022 của Turkmenistan, Uzbekistan và Azerbaijan là một cách phản đối mà Putin chưa bao giờ nghĩ tới.

Công bằng mà nói, không phải 141 quốc gia lên án Nga đều vì Ukraine. Không ít trong số họ nhận thấy đây là cơ hội tốt để hội nhập vào khối dân chủ tự do. Argentina, Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile tham gia phe Đồng Minh chỉ hơn hai tháng trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt nhưng vẫn được xem là quốc gia Đồng Minh và hãnh diện là thành viên sáng lập ra Liên Hiệp Quốc.

Chọn trường hợp Kampuchea láng giềng để phân tích cái khôn của Hun Sen và cái dại của đảng CSVN. Kampuchea ngày nay thừa hưởng gia tài chính trị hai mặt (Flip-flop politics) của Norodom Sihanouk để lại, nên cũng đã chọn cách bỏ phiếu hai mặt. Sihanouk đi với bất cứ ai kể cả tên diệt chủng Pol Pot, miễn là giữ được chiếc ngai vàng.

Hun Sen chọn bỏ phiếu ủng hộ Ukraine “đòi Nga rút ngay lập tức, hoàn toàn và vô điều kiện tất cả các lực lượng quân sự của mình khỏi lãnh thổ Ukraine trong các biên giới được quốc tế công nhận” trong nghị quyết quan trọng của Đại Hội Đồng LHQ ngày 2-3-2022 nhưng chọn bỏ phiếu trắng trong nghị quyết ít quan trọng hơn, loại Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ngày 7-4-2022.

Với chọn lựa khôn khéo này, Hun Sen muốn nói lớn cho Mỹ nghe rằng (1) Kampuchea không tham khảo Tập Cận Bình trước khi bỏ phiếu, (2) Kampuchea chưa quên vai trò chính yếu của Mỹ trong công cuộc phục hồi Kampuchea sau thời kỳ Pol Pot diệt chủng, (3) Kampuchea nhận thấy vai trò mới của Mỹ trong bàn cờ chính trị thế giới, nhất là Á châu và muốn có một sự cân đối trong mặt trận ngoại giao trong thời gian tới.

Chính phủ Mỹ chắc chắn đã lưu ý quan điểm đối ngoại của Kampuchea nổi bật trong khối các nước Đông Nam Á. Sau cuộc bầu phiếu, hai tòa đại sứ Pháp và Mỹ công bố lời cám ơn lãnh đạo Kampuchea đã có lập trường cứng rắn chống lại hành động xâm lược Ukraine của Nga.

Không có thù vặt trong chính trị. Quan hệ giữa hai quốc gia không chỉ đặt cơ sở trên quyền lợi chung mà còn trên quan điểm của mỗi quốc gia trước một vấn đề chung.

Cùng một mối quan tâm, chính sách đối ngoại của Ấn Độ vừa qua đã làm ba quốc gia còn lại lo lắng cho tương lai của Đối Thoại An Ninh Bốn Bên (Quadrilateral Security Dialogue, QUAD) và sẽ ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ – Ấn sau này.

Điều này thể hiện ngay trong tổng kết phiên họp của QUAD ngày 3-3-2022 vừa qua. Phiên họp diễn ra khá nhạt nhẽo so với hai phiên họp năm 2020 đầy phấn khởi với hàng loạt mục tiêu từ Covid-19 đến tự do và an ninh hải hành. Lần này, mặc dù phiên họp ở cấp nguyên thủ quốc gia không có một chương trình nào cụ thể ngoài việc cứu trợ nhân đạo cho Ukraine. QUAD được thành lập với ý định bao vây TC nhưng với chính sách hàng hai của Ấn Độ, với ngân sách dành cho quốc phòng chỉ 1% GDP (47 tỷ dollar) của Nhật Bản và quốc gia nhỏ (21 triệu dân) như Úc còn khá lâu mới dựng nổi một hàng rào ở Ấn Độ – Thái Bình Dương.

Đây không phải lần đầu. Sự lo ngại của Mỹ trước chính sách đối ngoại tả khuynh của Ấn phản ảnh trong thái độ của Mỹ trước xung đột giữa Ấn và Trung Cộng năm 1967 cũng như giữa Ấn và Pakistan năm 1971. Năm 1967, Mỹ đứng ngoài và trong xung đột năm 1971 Mỹ ủng hộ Pakistan. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, các nhà làm chính sách đối ngoại Mỹ muốn lôi kéo Ấn, một nước dân chủ, về phe tự do trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm cô lập TC. Đây là lối đi đúng nhưng đường còn dài.

Để biện minh cho chính sách đối ngoại rập khuôn TC, các lãnh đạo CSVN biện hộ rằng, cách bỏ phiếu của họ là biểu hiện thái độ trung lập trong xung đột Nga-Ukraine.

Trung lập là gì? Trích từ các văn bản của LHQ: “Tính trung lập – được định nghĩa là tình trạng pháp lý phát sinh từ việc một quốc gia không tham gia vào một cuộc chiến giữa các quốc gia khác”. Cũng theo tuyên bố của LHQ về tính trung lập: “Trước tình hình căng thẳng chính trị và khủng hoảng leo thang, điều hết sức quan trọng là phải giữ vững các nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết, không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia nào cũng như bảo vệ, thúc đẩy, khuyến khích giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình sao cho hòa bình và an ninh quốc tế không bị đe dọa”. (United Nations, International Day of Neutrality, 12 December).

Nhưng trung lập không có nghĩa chỉ tuyên bố “tôi đứng ngoài” là xong, mà còn phải được các cường quốc nằm trong quỹ đạo xung đột công nhận.

Khi Đệ nhị Thế Chiến vừa bùng nổ, hàng loạt quốc gia như Estonia, Ireland, Latvia, Lithuania, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển,Thụy Sỹ v.v… tuyên bố trung lập. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào tuyên bố trung lập cũng tránh được tai họa chiến tranh. Hitler tấn công các nước “trung lập” Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hòa Lan và Stalin, lúc đó là đồng minh của Hilter, thu gọn ba nước “trung lập” nhỏ vùng Baltics chỉ trong vài ngày.

Lịch sử các cuộc xung đột quân sự trong thế kỷ qua cho thấy, mục đích tối hậu của giới lãnh đạo một quốc gia khi tuyên bố trung lập là để bảo vệ sự “bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết”.

Gần nửa thế kỷ từ ngày cưỡng chiếm miền Nam năm 1975, đảng CSVN bảo vệ được gì về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ theo đúng định nghĩa trung lập của LHQ? Câu trả lời không chỉ là con số không mà là một số âm to lớn.

Không cần phải là một nhà nghiên cứu địa lý hay theo dõi chính trị hàng ngày, trong thời đại internet này, chỉ cần vào google gõ từng tên đảo Việt Nam như Gạc Ma, Đá Xu Bi, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Vành Khăn, sẽ thấy đó là những căn cứ quân sự TC hiện đại đầy đủ các phương tiện chiến tranh từ phi trường với nhiều phi cơ chiến đấu, trang bị hỏa tiễn tầm xa có thể đạt tới Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn trong một vài chục giây.

Những địa danh Vành Khăn, Tư Nghĩa, Gạc Ma v.v… chỉ còn trong các diễn văn, nghị quyết. Những quần đảo Việt Nam được nhắc tới trong thơ, trong nhạc đang còn sờ sờ trước mặt mà nghe xa xôi như từ thời Bắc thuộc vọng về.

“Trung lập” của CSVN đặt nền tảng trong chính sách gọi là “bốn không” được xác định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. (Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019)

Trung Cộng muốn gì ở CSVN? Một điều mà những ai theo dõi quan hệ giữa CSVN và TC đều biết TC muốn CSVN (1) hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị và (2) không được tách rời khỏi chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.

Cách hành xử của các lãnh đạo đảng CSVN cho thấy họ đang nghiêm chỉnh thỏa mãn các yêu sách đó của TC bằng tài nguyên và xương máu của nhiều đời dân tộc Việt.

Tại sao cần phải “ba không” hay “bốn không”?

Hội nghị quốc tế nào, cường quốc nào chính thức tuyên bố chấp nhận nguyên tắc “bốn không” của CSVN?

Không một quốc gia nào trong số các quốc gia tranh chấp chủ quyền các đảo trên Biển Đông đưa ra những nguyên tắc đối ngoại một chiều và bị động như CSVN.

Sau đây là nguyên tắc đối ngoại chỉ đạo của Cộng hòa Philippines, từng đưa TC ra tòa án quốc tế và thắng, được ghi trong Điều II Mục 7 của Hiến pháp Philippines năm 1987: “Cộng hòa Philippines theo đuổi một chính sách đối ngoại độc lập. Trong quan hệ với các quốc gia khác, điều quan hệ tối thượng sẽ là chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia và quyền tự quyết”.

Khẳng định của Philippines rất linh động, uyển chuyển, rõ ràng và tổng quát thích hợp cho mọi hoàn cảnh, mọi đối tác với đồng minh và cả kẻ thù.

CSVN cũng có thể nói một cách công khai như vậy nhưng nếu nói như Philippines các lãnh đạo đảng lại lo TC hiểu sai lòng dạ của họ.

Chiến tranh là tai họa không tránh khỏi. Đại đa số nhân loại, nhất là dân tộc Việt Nam, không muốn chiến tranh nhưng ngày nào trái đất còn chia ra những biên giới, ngày đó nhân loại còn có chiến tranh.

Người viết hình dung Tập Cận Bình vừa dán lên tường trong phòng làm việc của ông ta lời dặn dò cho các thế hệ lãnh đạo TC tương lai rút ra từ cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine: “Nếu phải trừng phạt Việt Nam lần nữa nhớ đừng đổ bộ mà hãy tận dụng tối đa mọi hỏa lực từ xa”.

Với kỹ thuật chiến tranh hiện có, TC thừa khả năng “trừng phạt CSVN” bằng hải lực và không lực từ Hải Nam, Hoàng Sa, các căn cứ quân sự trên đảo Chữ Thập, Xu Bi, Vành Khăn, từ hạm đội Nam Hải mà không cần phải đổ nửa triệu quân như 1979.

Nếu tình huống đó xảy ra, ai sẽ cứu Việt Nam? Trả lời theo lối bình dân là “chẳng có ma nào cứu”.

Lãnh đạo CSVN thường “nổ” cái gì cũng nhất. Đúng, một người không thể đứng thứ hai nếu chỉ chạy đua với chính mình, thi đua với chính mình, cạnh tranh với chính mình.

Về kinh tế, những quốc gia cựu CS thoát ra được và tự do phát triển, kể cả Mông Cổ, đều bỏ xa CSVN. GPD tính theo đầu người của Mông Cổ tăng gấp 10 lần kể từ cuộc bầu cử tự do chính thức 1993.

Nhưng những gì người dân Mông Cổ và các nước cựu CS có được, không chỉ là lợi tức kinh tế, tài chánh mà là quyền được bầu cử, ứng cử, tự do phát biểu, tự do đi lại, tự do tôn giáo, quyền biểu tình, quyền phê bình lãnh đạo mà không bị ai bắt bỏ tù và rất nhiều quyền khác mà người dân Việt Nam không có.

Giữa các cuộc chiến tranh, ngoài việc lo cải tiến và hiện đại hóa bộ máy quốc phòng, các nhà tư tưởng của mỗi quốc gia luôn cố gắng nghĩ ra một con đường đất nước sẽ phải đi qua, các thế hệ trẻ tập trung dùi mài kinh sử của nước mình và của thế giới để qua đó phát họa những chính sách dài hạn, ngắn hạn thích nghi cho đất nước.

Tư tưởng vô cùng quan trọng và phải đi trước. John Adams, tổng thống thứ hai của Mỹ viết thư cho Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Mỹ ngày 24-8-1815 “Cuộc Cách mạng đã ở trong ý thức của người dân, và điều này đã có hiệu quả, từ năm 1760 đến năm 1775, trong vòng mười lăm năm trước khi một giọt máu đổ xuống tại Lexington“. (Exhibition, Creating the United States, The Library of Congress).

Những lời phát biểu của Phạm Minh Chính cho thấy, sau 47 năm, Việt Nam vẫn còn là một nước với những tư tưởng lỗi thời, già nua và lạc hậu đã được nhân loại xếp vào ngăn tủ. Bộ Lenin toàn tập cũ, bìa cứng, in năm 1974 được bán ở Mỹ với giá rất cao vì đó là sách xưa dành cho các nhà sưu tập, thế nhưng tại Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lê trên danh nghĩa vẫn còn là cây kim chỉ nam cho đất nước đi lùi.

Related posts