ĐCSTQ thất bại ở Nam Thái Bình Dương, muốn sang chiếm chỗ của Nga

An Liên

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (ảnh: Shutterstock).

Ngày 5/6, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị kết thúc chuyến công du đến Nam Thái Bình Dương, nhưng các phương tiện truyền thông chính thức của Trung Quốc lại tránh đưa tin. Ngày 6/6, ông Vương Nghị vội vã tới Kazakhstan để chuẩn bị cho cuộc gặp với ngoại trưởng 5 nước Trung Á. Việc ông Vương Nghị thất bại ở Nam Thái Bình Dương, và vội vàng muốn chiếm chỗ của Nga đã làm nổi bật tình thế tiến thoái lưỡng nan trong chính sách ngoại giao của ĐCSTQ, đồng thời cũng cho thấy chiến lược ngoại giao của ĐCSTQ đã đi chệch hướng và ĐCSTQ lại một lần nữa kéo Trung Quốc vào tình thế tuyệt vọng.

Truyền thông Trung Quốc phớt lờ “kết quả” chuyến thăm Thái Bình Dương của ông Vương Nghị

Vào ngày 5/6, trang web của Bộ Ngoại giao ĐCSTQ đã đăng một bài báo, “Giúp các quốc đảo Thái Bình Dương tăng tốc phát triển và phục hồi, thực hành quan điểm ngoại giao bình đẳng với tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ – Ủy viên Quốc vụ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao ông Vương Nghị đã trả lời phỏng vấn về chuyến thăm các quốc đảo Nam Thái Bình Dương”.

Tuy nhiên, Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật báo lại một lần nữa giữ im lặng, như họ đã làm vào ngày 30/5.

Cuộc phỏng vấn của “Truyền thông Trung ương” với ông Vương Nghị dài hơn 4.000 từ, và Bộ Ngoại giao ĐCSTQ hẳn phải cảm thấy có không ít ‘thành tựu’; tuy nhiên, Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật báo lại một lần nữa giữ im lặng, như họ đã làm vào ngày 30/5. Vào ngày 30/5, ông Vương Nghị đã tổ chức một cuộc họp với ngoại trưởng các đảo Thái Bình Dương tại Fiji, đây lẽ ra là sự kiện quan trọng nhất của chuyến đi, nhưng đã bị giới truyền thông nhà nước phớt lờ. Cuộc họp đã không đưa ra một tuyên bố chung, và ĐCSTQ đã phải đưa ra lập trường của riêng mình. Một tuần sau, ông Vương Nghị kết thúc chuyến thăm các quốc đảo ở Thái Bình Dương, truyền thông nhà nước vẫn không đưa tin về “kết quả” chuyến thăm, và ông Vương Nghị trở về trong thất bại.

Bộ Ngoại giao ĐCSTQ đã tự tổng hợp chuyến thăm với tám vấn đề lớn, bao gồm mục đích của chuyến thăm, các chính sách cơ bản, kết quả hợp tác và cạnh tranh với Úc và New Zealand tại các quốc đảo Thái Bình Dương,v.v. Các câu trả lời của ông Vương Nghị chủ yếu là ngụy biện không có thực chất.

Không thể tổng kết “kết quả”, nhưng ông Vương Nghị đề cập rằng “thế giới bên ngoài đã rất chú ý đến chuyến đi tới Nam Thái Bình Dương này” và “cũng có một số nghị luận và hiểu lầm”.

ĐCSTQ đã cử ông Vương Nghị đến Nam Thái Bình Dương nhưng thấy rằng một loạt các chuyến thăm không có kết quả, ông Vương Nghị phải nói rằng ông “tôn trọng các mối quan hệ khác nhau mà đảo quốc đã thiết lập với các quốc gia khác và tôn trọng quan hệ truyền thống giữa Úc, New Zealand và các quốc đảo”, “tiếp tục thực hiện hợp tác ba bên hoặc bốn bên hơn nữa với Úc và New Zealand ở khu vực Nam Thái Bình Dương theo nguyện vọng của các quốc đảo với thái độ cởi mở”.

Chuyến đi của ông Vương Nghị ban đầu chỉ nhằm lôi kéo các quốc đảo ở Thái Bình Dương, kích động đối đầu với Hoa Kỳ và Úc ở Nam Thái Bình Dương, tiến vào sân trước của Úc để gây rối. Tuy nhiên, khả năng ngoại giao yếu kém của ĐCSTQ đã không thể lay chuyển quan hệ giữa các nước với Mỹ và Úc, vậy nên ông Vương Nghị đã phải thay đổi lời nói của mình rằng “tiếp tục thực hiện hợp tác ba bên hoặc bốn bên hơn nữa với Úc và New Zealand ở khu vực Nam Thái Bình Dương”, thậm chí không dám nói là “cạnh tranh”.

“Sự hợp tác” mà ông Vương Nghị tuyên bố một cách sai sự thật đã bị chính ĐCSTQ phơi bày. Cuộc đối đầu chính trị và quân sự giữa Trung Quốc và Úc leo thang đáng kể gần đây khi máy bay chiến đấu Trung Quốc khiêu khích máy bay tuần tra chống ngầm P-8A của Úc trên Biển Đông.

Truyền thông Trung Quốc không thể đưa tin “kết quả” chuyến thăm của ông Vương Nghị, vì vậy họ một lần nữa im lặng. Ông Vương Nghị có lẽ cần “kết quả” này để tạo đà cho khả năng thăng tiến của mình trong Đại hội toàn quốc lần thứ 20. Không gian quốc tế của Bộ Ngoại giao ĐCSTQ ngày càng trở nên hạn chế, và số lượng quốc gia mà ông Vương Nghị có thể thực sự đến thăm cũng ngày càng ít đi.

Chuyến đi đến Trung Á của ông Vương Nghị hầu như không có kết quả

Ngày 7/6, Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật báo liên tiếp đưa tin “Ông Vương Nghị đã hội đàm với Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Kazakhstan Tileuberdi”, “Tổng thống Kazakhstan Tokayev gặp ông Vương Nghị”, “Vương Nghị: Chung tay xây dựng 30 năm hoàng kim của quan hệ Trung Quốc-Kazakhstan”.

Theo Bộ Ngoại giao ĐCSTQ, từ ngày 6 đến 9/6, ông Vương Nghị đã tới Kazakhstan để tham dự cuộc họp lần thứ ba với ngoại trưởng 5 nước Trung Á. Cuộc chiến Nga-Ukraine đã bước vào một cuộc chiến kéo dài và Nga đang phải đối mặt với những lệnh trừng phạt mạnh mẽ nhất từ ​​Mỹ và phương Tây, việc ông Vương Nghị gặp ngoại trưởng 5 nước Trung Á vào thời điểm này chẳng khác nào lợi dụng cơ hội để chiếm ưu thế của Nga.

Đầu năm 2022, Kazakhstan chứng kiến ​​các cuộc biểu tình lớn nhất kể từ khi Liên Xô cũ sụp đổ, nhắm vào cựu Tổng thống Nursultan Nazarbayev, người có quan hệ mật thiết với ĐCSTQ. Chính phủ mới của Kazakhstan đã kêu gọi sự giúp đỡ từ Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể (CSTO), và quân đội Nga đã nhanh chóng tiến vào để trấn áp, khiến ĐCSTQ hoàn toàn không có khả năng can thiệp. Kazakhstan sau đó đã lên án sự can thiệp của “các thế lực bên ngoài”, và ĐCSTQ ngay lập tức chột dạ và bác bỏ những tin đồn. ĐCSTQ cho rằng nó đã xâm nhập vào Trung Á trong nhiều năm, nhưng đến thời điểm quan trọng vẫn không thể qua được Nga, bây giờ Nga đang gặp khó khăn, ĐCSTQ có lẽ đã muốn trở lại.

Các quốc gia Trung Á nằm trong đất liền và gần với Nga về mặt địa lý. Mặc dù, các quốc gia này không muốn quay trở lại thời kỳ bị Liên Xô cũ cai trị nhưng họ phải dựa vào Nga để bảo đảm an ninh, đồng thời cũng hy vọng có được sự trợ giúp kinh tế từ bên ngoài nước Nga, và ĐCSTQ chỉ lợi dụng điều đó. Cuộc đọ sức giữa Trung Quốc và Nga ở Trung Á chưa bao giờ dừng lại. Nga cũng đang cố gắng xâm nhập vào Afghanistan, và cho đến nay vẫn từ chối công nhận Taliban do ĐCSTQ hậu thuẫn. Ông Vương Nghị có thể tăng cơ hội thăng chức nếu ông ấy có thể trở lại trận đấu vào thời điểm này, vì ĐCSTQ rõ ràng đã thua Nga trong việc giải quyết tình trạng bất ổn dân sự ở Kazakhstan vào đầu năm.

Sau khi chiến tranh Nga-Ukraine bùng nổ, các nước Trung Á đương nhiên rất xấu hổ, không dám lên án việc Nga xâm lược Ukraine, cũng không cử quân đến hỗ trợ theo yêu cầu của Nga. Các nước Trung Á không thể mong gia nhập NATO, cũng như không thể dễ dàng trở thành kẻ thù với NATO. Ngoài việc cân bằng giữa Trung Quốc và Nga một cách cẩn thận, các nước cũng hy vọng nhận được sự quan tâm của Hoa Kỳ và các nước châu Âu để giữ lại càng nhiều không gian chiến lược quốc tế nhất có thể.

ĐCSTQ một lần nữa vươn cành ô liu sang Trung Á, đương nhiên các nước sẽ không từ chối, nhưng cũng không dễ chọn bên. ĐCSTQ đã hết tiền, và nếu các nước này không thể nhìn thấy tiền thật mà ĐCSTQ đã bỏ ra, thì các nước Trung Á sẽ không ở gần ĐCSTQ. ĐCSTQ cho rằng đã tính toán kỹ lưỡng, nhưng e rằng chuyến đi của ông Vương Nghị tiếp tục khó đạt được “kết quả”. Sau cuộc họp của ngoại trưởng các nước, dù có thể có một tuyên bố tượng trưng hay không, thì cuộc gặp nhiều khả năng chỉ là một cuộc trò chuyện và Nga sẽ để mắt đến nó.

Sau thất bại của ông Vương Nghị ở Nam Thái Bình Dương, chuyến đi đến Trung Á không đến nỗi mất mặt, nhưng cũng không có “kết quả” thực sự nào, điều này phụ thuộc vào việc truyền thông nhà nước Trung Quốc có sẵn sàng ủng hộ ông Vương Nghị và giúp ông xây dựng động lực hay không. Nếu các hoạt động ngoại giao như vậy không được đẩy mạnh, ông Vương Nghị về cơ bản sẽ không còn cơ hội nào khác.

Trong những năm gần đây, các quan chức cấp cao nhất của ĐCSTQ liên tục mắc sai lầm trong chiến lược ngoại giao, ông Vương Nghị đã hành động như một sói chiến, làm rối ren và bế tắc quan hệ với các nước lớn trên thế giới, đồng thời khiến không gian cho các chuyến thăm nước ngoài ngày càng nhỏ hẹp.  Theo logic thông thường, việc thăng chức của ông Vương Nghị là một giấc mơ viển vông. Tuy nhiên, chiến lược ngoại giao của ĐCSTQ rất khó xoay chuyển và không ai có thể làm gì được.

Chiến lược ngoại giao phi lý của ĐCSTQ

Cuộc đấu tranh Trung-Nga ở Trung Á phản ánh mâu thuẫn địa chính trị giữa hai bên. Ông Giang Trạch Dân đã chính thức bán hơn 1 triệu km vuông lãnh thổ để đổi lấy hòa bình tạm thời với Nga và che giấu thân phận là một cựu điệp viên của Liên Xô, nhưng cuộc tranh chấp lãnh thổ không kết thúc ở đó.

So với sự cạnh tranh trong các khu vực nội địa của Trung Á, vị trí chiến lược của Viễn Đông rõ ràng là quan trọng hơn. ĐCSTQ không dám tiết lộ âm mưu của mình chống lại vùng Viễn Đông của Nga, nhưng Nga phải luôn đề phòng ĐCSTQ. Nga luôn từ chối chuyển giao những vũ khí tinh vi nhất cho ĐCSTQ, chỉ vì sợ một ngày nào đó ĐCSTQ sẽ cắn lại.

Nếu Trung Quốc có thể giành lại Vladivostok, nước này sẽ có hàng xuất khẩu từ Biển Nhật Bản, và giá trị kinh tế và quân sự của nó sẽ rất lớn; nếu có thể mở rộng đến đảo Sakhalin, một thế giới mới có thể được mở ra ở phía bắc. So với tranh chấp Trung-Mỹ, tranh chấp Trung-Nga rõ ràng hơn.

Về bản chất, không có xung đột lợi ích cơ bản giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Sau khi quân đội Nhật Bản xâm lược Trung Quốc trên quy mô lớn, Trung Quốc và Hoa Kỳ đã trở thành đồng minh. Sau chiến thắng của Chiến tranh chống Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ, với tư cách là thành viên thường trực của Liên hợp quốc, có thể đã cùng nhau duy trì sự thịnh vượng về an ninh và kinh tế của Thái Bình Dương, vào thời điểm đó, Thượng Hải đã được so sánh với New York.

Khi ĐCSTQ nói về “công xưởng thế giới”, Đài Loan, nơi bị ĐCSTQ coi thường, đã chiếm một đỉnh cao trong nền kinh tế thế giới với ngành công nghiệp vi điện tử với chip làm cốt lõi. Nếu Trung Quốc có thể tiếp bước Đài Loan và hướng tới nền kinh tế thị trường và dân chủ chính trị, thì ít nhất nước này sẽ hợp tác với Hoa Kỳ, và sẽ hòa hợp với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á, và Thái Bình Dương sẽ thịnh vượng.

Nếu Trung Quốc có thể phát triển bình thường, với sự chăm chỉ và khéo léo của hơn một tỷ người Trung Quốc, thì sự mở rộng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu thực sự có thể tạo ra thị trường và cơ hội kinh tế lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, ĐCSTQ không sẵn sàng từ bỏ các đặc quyền của mình, và đã kích động đối đầu Trung-Mỹ, đối đầu Trung-Nhật và đối đầu Trung-Âu; cố tình che giấu dịch bệnh và sự lây lan của virus, cố gắng lợi dụng dịch bệnh để tìm kiếm bá chủ và tạo ra “sự trỗi dậy ở phương đông và sự sụp đổ ở phương tây”. ĐCSTQ biết rằng Nga sẽ không liên minh với mình, nhưng họ vẫn chọn hợp tác với Nga; mặc dù cả thế giới lên án việc Nga xâm lược Ukraine, nhưng ĐCSTQ vẫn đang ủng hộ Nga và duy trì thế đối đầu với Hoa Kỳ và phương Tây.

Có bao nhiêu cơ hội cho người Trung Quốc?

ĐCSTQ bỏ qua các xung đột địa chính trị của họ với Nga, không quan tâm đến việc làm xấu mối quan hệ với Ấn Độ mà Nga lại có mối quan hệ tốt với Ấn Độ; trong khi biên giới trên bộ của Trung Quốc không yên bình, ĐCSTQ chọn cách tấn công toàn lực từ Thái Bình Dương. Ngày nay, không thể loại bỏ sự đối đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á ở Đông Á đều lần lượt hướng về Hoa Kỳ. ĐCSTQ ủng hộ Nga, và mối quan hệ với Châu Âu và NATO một lần nữa xấu đi rõ rệt. 25 năm sau khi Hồng Kông trở về Trung Quốc, nó nhanh chóng bị ĐCSTQ làm tê liệt, và thế giới một lần nữa phải nhìn kỹ lại ĐCSTQ.

Trong khi ĐCSTQ gặp khó khăn, nó không thể gây thêm rắc rối ở Nam Thái Bình Dương, nhưng nó làm sâu sắc thêm mâu thuẫn với Úc. Cuối cùng, ông Vương Nghị chỉ có thể quay trở lại Trung Á. Chiến lược ngoại giao của ĐCSTQ đã làm lẫn lộn đầu đuôi, một lần nữa đẩy đất nước Trung Quốc về phía đối diện của thế giới.

Trong cuộc sống thực tế của người dân Trung Quốc, họ đã cảm nhận được sự bế tắc bên trong và bên ngoài do ĐCSTQ mang lại, và cơ hội tái gia nhập thế giới của Trung Quốc đang dần mất đi. Các nhà lãnh đạo cao nhất của ĐCSTQ vẫn đang đấu tranh quyết liệt cho Đại hội toàn quốc lần thứ 20. Họ không những không chịu thừa nhận sự méo mó nghiêm trọng của các chiến lược đối nội và đối ngoại, mà còn tăng cường đối đầu.

Theo The Epoch Times

Related posts