Trần Ngọc Thành
30-4-2025
Dẫn nhập: Những ngày này, đảng Cộng sản Việt Nam đang rầm rộ tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày “giải phóng Miền Nam”, thống nhất đất nước. Thực chất, đây là cuộc nội chiến tương tàn giữa hai anh em Bắc – Nam cùng một nước vì ý thức hệ cộng sản và dân chủ.
Lẽ ra sau khi đã “thống nhất”, “bên thắng cuộc” phải chủ động trong việc “hòa giải, hòa hợp” dân tộc để tái thiết và phát triển đất nước. Nhưng 50 năm qua, hận thù vẫn luôn được nhà cầm quyền cộng sản nuôi dưỡng và khích lệ dưới mọi hình thức.
Trong cuộc nội chiến tương tàn, kết thúc 50 năm trước, giới công nhân và người dân lao động ở miền Bắc là lực lượng tiên phong mà đảng Cộng sản tận dụng để chiến đấu chống lại Việt Nam Cộng Hòa và giữ vững “hậu phương” miền Bắc. Thế nhưng, sau 50 năm thống nhất, họ vẫn tiếp tục là đối tượng bị bóc lột và đối xử tàn tệ.
Cũng những ngày này, hàng chục ngàn thanh niên trai tráng ở nhiều tỉnh, thành trên cả nước, thay vì “hồ hởi, hân hoan đón mừng” ngày “giải phóng”, nhưng họ lại chen chúc nhau tại các trung tâm tuyển dụng lao động xuất khẩu đến Hàn Quốc, Nhật Bản; hàng ngàn thanh niên vẫn tìm mọi cách sang các nước Âu châu để đổi đời.
Xin được điểm lại những nét chính về những gì giới công nhân và người lao động được “thừa hưởng” trong 50 năm qua.
***
Giới công nhân và người lao động Việt Nam sau 50 năm dưới sự cai trị của đảng Cộng sản và sự phản kháng của người dân đối với chính sách của nhà cầm quyền.
Việt Nam là một nhà nước độc tài đảng trị. Đảng Cộng sản Việt Nam, nắm giữ quyền lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội ở Miền Bắc từ năm 1945 và trên cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay, sau khi dùng vũ lực cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa.
Tất cả các tổ chức xã hội đều do đảng Cộng sản lập ra và lãnh đạo, nằm trong “Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam” do một Ủy Viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản đứng đầu.
Năm mươi năm qua, giới công nhân và người lao động Việt Nam chỉ là phương tiện, là nguồn lực để đảng Cộng sản cướp chính quyền và duy trì quyền lực. Giới công nhân và người lao động cũng là đối tượng để đảng Cộng sản bóc lột và trấn áp. Những người lao động thấp cổ bé họng hầu như không có bất cứ quyền gì, cuộc sống và sinh hoạt đều nằm trong sự kềm tỏa gắt gao của nhà cầm quyền cộng sản. Cuộc sống của họ trong 50 năm qua có thể chia thành hai gia đoạn:
Giai đoạn 1: Từ năm 1975 đến năm 1990, khi còn tồn tại khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô.
Giai đoạn 2: Từ năm 1990, khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ đến nay.
Giai đoạn 1
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, nhà cầm quyền cộng sản Bắc Việt đã dùng chính sách sai lầm và tàn bạo đối với người dân miền Nam, biến họ thành công dân hạng 3 trong xã hội.

Chính quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt chế độ độc đảng, toàn trị và nền kinh tế trung ương hoạch định trên cả nước. Về tổ chức, để xây dựng thể chế, nhà cầm quyền tịch thu nhà cửa, đất đai, đánh tư sản, cưỡng bức người dân đi kinh tế mới, quốc hữu hóa, v.v… Kết quả là đã đưa nền kinh tế miền Nam từ chỗ phát triển vượt trội so với các nước trong khối Đông Nam Á, trở nên nghèo đói như miền Bắc.

Về quản lý kinh tế, nhà cầm quyền áp dụng phương thức quản lý và phát triển kinh tế Miền Nam giống như Miền Bắc: Vào hợp tác xã, chế độ tem phiếu, quản lý chặt chẽ mọi mặt hàng thiết yếu.

Từ một vựa lúa ở Đông Nam Á, phần lớn người dân hai miền được phân phối sắn, khoai và bo bo như là thực phẩm chính, là loại thực phẩm mà các nước cộng sản Đông Âu và Liên xô dùng để nuôi súc vật. Chế độ tem phiếu được áp dụng.

Công nhân, viên chức nhà nước mỗi năm được phát phiếu vải 4 mét, 13 cân lương thực, 500 gam thịt, còn người nông dân phải tự túc, không có bất kỳ quyền lợi nào.

Thời gian này, nhà nước Việt Nam tồn tại chủ yếu nhờ vào sự viện trợ tất cả các mặt của khối cộng sản Đông Âu, Liên Xô và Trung Quốc. Nền công nghiệp miền Nam bị tàn phá, nền công nghiệp miền Bắc cũng rất lạc hậu.
Công nhân là một lực lượng nhỏ bé, chủ yếu gia công và sửa chữa trong các xí nghiệp do nhà nước quản lý, sản xuất theo các chỉ tiêu đã được vạch sẵn không cần chú ý đến chất lượng và hiệu quả kinh tế, mức lương gần như cố định trong nhiều năm.

Số lượng công nhân và nhân viên nhà nước xấp xỉ 3 triệu người làm việc ở các mỏ than, nhà máy dệt, các cảng biển, nhà máy sửa chữa xe lửa. Chính sách kế hoạch hóa quan liêu bao cấp theo chủ thuyết cộng sản đã làm cho nền kinh tế và xã hội kiệt quệ. Năng suất lao động không có, toàn xã hội sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn từ cái kim, sợi chỉ.
Nhưng giới cầm quyền và gia đình họ có chế độ đặc biệt. Có những nông trường như nông trường Ba Vì chuyên chăn nuôi gia súc, cung cấp thịt hoặc có những cánh đồng ở Thái Bình chuyên trồng lúa đặc sản, cung cấp cho giới cầm quyền. Ngoài giới cao cấp được hưởng thụ theo nhu cầu, tem phiếu cũng được phân loại ABCDE cho các loại cán bộ từ trên xuống. Phiếu E là loại thấp nhất dành cho tầng lớp công nhân và nhân viên nhà nước.
Vì nền kinh tế lạc hậu, các cơ sở công nghiệp tồi tàn, làm ăn không bao giờ có lãi, nhà nước luôn phải xin tiền viện trợ từ các nước cộng sản để bù vào ngân sách. Hàng năm, phó thủ tướng Lê Thanh Nghị luôn dẫn đầu đoàn đại biểu đảng và chính phủ đi xin viện trợ từ các nước Xã Hội Chủ nghĩa “anh em”.
Với chính sách duy ý chí và “thói kiêu ngạo cộng sản”, nhà cầm quyền cho rằng họ đã đánh thắng Mỹ thì có thể làm được mọi thứ nên những ai góp ý, đưa ra sáng kiến để cải thiện, phát triển kinh tế, đều bị cho là theo tư bản, là chống đảng, bị quy kết là phản động, bị bỏ tù.
Ba lần đổi tiền là những hình thức cướp đoạt tài sản của người dân. Chính sách Giá – Lương – Tiền do Phó thủ tướng, nhà thơ Tố Hữu chỉ đạo, đã đẩy cuộc sống của người dân cả nước xuống vực thẳm.
Vì lực lượng lao động dư thừa quá lớn, từ năm 1980 nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đến các nước cộng sản Đông Âu, chủ yếu là các nước Đông Đức, Tiệp khắc, Bungary và Liên Xô để lấy ngoại tệ, duy trì chế độ. Ngoài ra, nhà cầm quyền còn xuất khẩu lao động đến các nước hồi giáo như Iraq, Iran, Afganistan… Bình quân mỗi năm xuất khẩu 25.000 lao động.
Đối tượng xuất khẩu cũng chỉ là con em của các cán bộ, đảng viên cộng sản, những người có công với chế độ. Tuy đồng lương ở các nước cộng sản lúc đó rất thấp so với các nước phương Tây, nhưng so với mức lương ở Việt Nam thì giá trị nhiều hơn cả chục lần.
Được đi xuất khẩu lao động là mơ ước của những thanh niên trẻ thời đó. Giới trí thức có trình độ trong nước cũng thất nghiệp nên nhà cầm quyền đã xuất khẩu họ qua các nước châu Phi như Angola, Algeria… làm việc trong các bệnh viện, trường học, để gửi ngoại tệ về giúp nuôi sống chế độ. Từ năm 1980 đến năm 1990, nhà cầm quyền cộng sản xuất khẩu khoảng 300.000 lao động.
Thời gian này, ở Việt Nam cũng cho tồn tại cái gọi là “Tổng Công đoàn Việt Nam” nằm trong hệ thống các tổ chức chính trị do đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch “Tổng Công đoàn Việt Nam” qua các thời kỳ là Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh, Phạm Thế Duyệt đều là các Ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản. Các nhà máy, công xưởng ở miền Bắc đều do nhà nước quản lý, không có cơ sở sản xuất tư nhân. Ở miền Nam, sau năm 1975, nhà cầm quyền đã “quốc hữu hóa” các cơ sở công nghiệp hoặc “công tư hợp doanh” nhưng từng bước, tước đoạt tư doanh để độc quyền quản lý.
Hoạt động của “công đoàn” chỉ là phổ biến các chủ trương của đảng Cộng sản và giám sát việc thực hiện, phân phát tem phiếu, tổ chức bình bầu các “danh hiệu thi đua” theo chỉ thị của đảng Cộng sản.
Công nhân và nhân viên nhà nước phải đóng “công đoàn phí” hàng tháng bằng cách trừ vào lương.
3. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Sau khi khối cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhà nước cộng sản Việt Nam không còn nguồn viện trợ nào, tình hình kinh tế và xã hội ở mức tồi tệ nhất. Để cứu nguy chế độ, đảng Cộng sản bắt buộc phải chuyển hướng phát triển kinh tế bao cấp sang “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho tư bản nước ngoài đầu tư ồ ạt vào Việt Nam.
Cũng từ đây, giai cấp công nhân Việt Nam phát triển không ngừng. Từ một nước nông nghiệp với một nền công nghiệp không đáng kể, Việt Nam trở thành một công xưởng rộng lớn, chủ yếu là gia công các hàng công nghiệp nhẹ cho tư bản nước ngoài như hàng may mặc, giày da và các mặt hàng điện tử. Đội ngũ công nhân ngày càng tăng, thời gian đầu, phần lớn tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Bình Dương, Đà Nẵng, Hải Phòng; về sau phát triển rộng rãi ở các tỉnh khác, tại các khu vực ở miền Bắc và miền Trung.
Trải qua một thời gian dài từ năm 1975, do chính sách quản lý sai lầm, phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, nền kinh tế kiệt quệ. Khi kêu gọi các công ty tư bản nước ngoài vào đầu tư, nhà cầm quyền CSVN không còn gì để góp vốn. Tháng 7 năm 1993, họ ra luật đất đai số 24-L/CTN quy định, “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý”, người dân chỉ có quyền sử dụng.

Từ đây, nhà cầm quyền bắt đầu tiến hành hàng loạt vụ cướp đất hợp pháp của người dân từ Bắc chí Nam, như một hình thức “góp vốn” hạ tầng với giới chủ tư bản, gây ra hàng ngàn vụ oan sai, đẩy người dân vào cảnh bần cùng, điển hình là các vụ cướp đất ở Dương Nội, Thủ Thiêm, Đồng Tâm… Hàng ngàn cuộc biểu tình, khiếu kiện, nhà cầm quyền đã cho công an thẳng tay đàn áp, bắn giết.
Người dân ở nông thôn đời sống rất khó khăn, người đông ruộng ít, lại ngày càng bị thu hẹp do nhà nước cướp đất làm khu công nghiệp, khu vui chơi giải trí, buộc họ phải ra thành phố gia nhập đội ngũ công nhân. Đa số công nhân có tay nghề thấp, vì xuất thân từ nông dân, được đào tạo trong thời gian ngắn, chỉ đáp ứng trình độ gia công hay lắp ráp các linh kiện được sản xuất ở nước ngoài. Việt Nam trở thành khu vực gia công lý tưởng cho các chủ tư bản nước ngoài vì giá lao động rẻ mạt cho lao động giản đơn.
Là một nhà nước độc tài, giữ quyền cai trị bằng mọi giá, quyền lực tập trung trong tay rất ít người, người lao động VN, môi trường và tài nguyên thiên nhiên VN chỉ là phương tiện, là công cụ để những kẻ cầm quyền, là đảng viên, làm giàu. Công nhân VN tuy là lực lượng chính sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng lại là những người bị bóc lột nặng nề nhất. Họ phải làm việc cật lực từ 10 đến 15 tiếng một ngày trong môi trường bị ô nhiễm, nhưng chỉ được trả lương bình quân từ 60 Mỹ kim/tháng (thập niên 1990), phải sống trong những khu nhà trọ ổ chuột, bẩn thỉu. Ngoài ra, chủ còn tìm mọi cách để cúp lương, không đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân, phạt công nhân, thậm chí còn đánh đập, chửi rủa, làm nhục.

Tổng Công đoàn Việt Nam được đổi tên thành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) cũng chỉ là công cụ của đảng Cộng sản, mục đích không thay đổi là kềm tỏa và giám sát công nhân và người lao động. Chủ tịch Tổng Liên đoàn là ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản, lãnh đạo công đoàn các cấp cũng đều là đảng viên.
Phần lớn cán bộ công đoàn cơ sở thuộc lĩnh vực tư nhân do giới chủ trả lương, nên khi có tranh chấp quyền lợi thì thường đứng về phía chủ nhân, bảo vệ quyền lợi của giới chủ. Nhà cầm quyền VN tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột công nhân, chia chác lợi nhuận với giới chủ.
Những năm đầu, công nhân chưa ý thức được quyền lợi của mình nên cam chịu, nhẫn nhục, không dám đấu tranh, giới chủ càng lợi dụng để bóc lột nặng nề. Mâu thuẫn xảy ra giữa công nhân với giới chủ không được giải quyết, giới chủ lại cậy thế có chỗ dựa là chính quyền nên công nhân bị đẩy vào bước đường cùng, không còn lựa chọn nào khác là phải tổ chức đình công.
Thế nhưng, không một cuộc đình công nào trong gần 7.000 cuộc đình công trên toàn lãnh thổ được xem là hợp pháp theo rừng luật lao động VN, kể từ khi bộ luật lao động của VN có hiệu lực cho đến cuối tháng 12 năm 2020.

Khi các cuộc đình công lan rộng trên cả nước, những người quan tâm đến tình trạng bóc lột tồi tệ của giới chủ bắt đầu vận động để thành lập “Công đoàn độc lập”. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, một nhóm người ở Việt Nam tuyên bố thành lập “Công Đoàn Độc Lập Việt Nam” (CĐĐLVN) để bênh vực và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. CĐĐLVN đã làm các thủ tục đăng ký pháp lý với nhà nước Việt Nam.
Sự ra đời của CĐĐLVN đã được công nhân hoan nghênh và hưởng ứng mạnh mẽ. Đúng một tuần sau, từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 10 năm 2006, một hội nghị quốc tế được tổi chức tại Warszawa, thủ đô nước Cộng Hòa Ba Lan, với hơn 70 đại biểu từ nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, Úc châu, Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Tiệp, Hà Lan, Nga. Hội nghị mang tên “Cơm Áo và Quyền lao động”, được sự giúp đỡ của “Công Đoàn Đoàn Kết” Ba Lan, “Hiệp Hội Tự Do Ngôn Luận Ba Lan”. Hội Nghị nhằm mục đích ủng hộ về mọi mặt cho “Công đoàn Độc lập Việt Nam”.
Các đại biểu hội nghị được các bộ trưởng, chánh văn phòng Tổng Thống Ba Lan và văn phòng Thủ tướng chào đón. Các đại biểu cũng đến chào Chủ tịch Công đoàn đoàn kết, thăm viện bảo tàng “Công đoàn đoàn kết tại Gdansk”.

Các đại biểu Việt Nam tham dự hội nghị gồm Phó chủ tịch Công đoàn Đoàn kết Ba Lan Tomasz Wojcik, Chủ tịch Hiệp Hội tự do ngôn luận Ba Lan Miroslaw Chojecki. Và một số thành viên Công Đoàn Đoàn kết Ba Lan.


Hội nghị thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam (UBBV). Từ thời điểm đó, UBBV và CDĐL đã sát cánh cùng nhau trong việc tranh đấu cho quyền lợi của công nhân và người lao động Việt Nam.
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng WTO đã phớt lờ các tiêu chuẩn về lao động của nhà nước CS Việt Nam, nên hàng hóa được sản xuất ở Việt Nam rẻ hơn rất nhiều so với các nơi khác, vì yếu tố bóc lột sức lao động chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị hàng hóa. Việt Nam cũng là một trong những nước có số lượng tù nhân lớn nhất thế giới và nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt buộc tù nhân làm việc kể cả sản xuất hàng hóa xuất khẩu nhưng không trả lương.
Sau khi là thành viên chính thức của WTO và Việt Nam tổ chức hội nghị APEC ở Hà Nội, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bắt đầu đàn áp các thành viên sáng lập Công đoàn Độc lập như : Luật sư Lê Thị công Nhân, luật sư Nguyễn văn Đài và nhiều thành viên khác bị vào tù; Phó chủ tịch CĐĐL Lê Trí Tuệ bị bắt cóc, mất tích từ 18 năm nay; một số người buộc phải trốn chạy ra nước ngoài và xin tỵ nạn tại các nước ủng hộ dân chủ. Nhưng, những anh chị em tranh đấu cho quyền lợi của người lao động quyết không bỏ cuộc, tiếp tục hoạt động bí mật, tiếp cận các công ty, xí nghiệp để xây dựng phong trào.
Ngoài việc liên kết với các cơ sở công nhân, UBBV đã phát hành hàng chục ngàn tờ rơi, gửi tới người lao động với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu hướng dẫn công nhân tranh đấu bảo vệ quyền lợi của chính họ.
Hàng trăm cuộc đình công lớn nhỏ mỗi năm đã xảy ra trong phạm cả nước, có những cuộc đình công với hàng chục ngàn công nhân tham gia. Những cuộc đình công đã buộc giới chủ phải nhượng bộ một phần những đòi hỏi chính đáng của công nhân.
Cuối năm 2008, “Phong Trào Lao Động Việt” (PTLĐV) ra đời như là sự tiếp nối để giúp đỡ công nhân không ngừng tranh đấu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Ở hải ngoại, anh chị em trong UBBV đã tranh thủ tiếp xúc với nghiệp đoàn và chính phủ các nước để tố cáo nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam toa rập với giới chủ, tạo điều kiện cho giới chủ bóc lột thậm tệ người lao động Việt Nam.
Tính từ năm 1995 đến năm 2021, đã có 6.364 cuộc đình công do công nhân tự tổ chức ở Việt Nam và “Liên đoàn Lao động Việt Tự do” hướng dẫn. TLĐLĐVN không những không ủng hộ công nhân tranh đấu đòi quyền lợi, mà còn toa rập với chính quyền dùng công an đàn áp, bắt bở bỏ tù những người tổ chức đình công.
Ngày 30-1-2008, Thủ tướng chính phủ Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ra nghị định số 11/2008/ND-CP, cấm công nhân đình công và xử phạt nặng nề những người tổ chức. TLĐLĐVN ủng hộ quyết định của Thủ tướng.
Ngày 17-6-2011, trong buổi làm việc với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, chủ tịch TLĐLĐVN đồng thời là Ủy viên trung ương đảng Cộng sản Việt Nam Đặng Ngọc Tùng đã đề nghị chính phủ chỉ đạo bộ công an các tỉnh, thành phố có các biện pháp nghiệp vụ phát hiện và xử lý những người giúp đỡ công nhân mà họ gọi là ‘băng nhóm xã hội đen’ nhằm ngăn chặn các cuộc đình công của công nhân.
Tất cả các cuộc đình công của công nhân từ trước đến nay đều bị nhà cầm quyền cho công an đàn áp, truy tìm những người cầm đầu để phạt tù hoặc đuổi việc.
Với một nền kinh tế kém phát triển, có nguồn lao động dư thừa, để tăng thêm nguồn thu ngoại tệ duy trì chế độ, nhà cầm quyền gia tăng việc xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Tuy nhiên, là một nhà nước độc tài, tệ nạn tham nhũng và cửa quyền đã đẩy những người dân đi xuất khẩu lao động phải gánh chịu bao cảnh khổ cực và oan trái. Nhà cầm quyền cấp giấy phép tuyển dụng cho người nhà hoặc các công ty “sân sau” với những gói tiền lót tay hoặc ăn chia khi lấy tiền của người được đi xuất khẩu.

Đa số lao động xuất khẩu là những người nghèo, xuất thân từ nông thôn. Để được xuất khẩu, phải chi cho các công ty môi giới hàng trăm triệu đồng, người lao động phải thể chấp nhà cửa, tài sản, ruộng vườn để vay ngân hàng. Người lao động không hiểu biết pháp luật, thường bị môi giới lừa đảo, thu tiền xong, khi ra nước ngoài là họ bị bỏ mặc, không ai chịu trách nhiệm. Người lao động ra nước ngoài bị thu hộ chiếu, phải làm việc cực nhọc, bị đối xử tồi tệ, bị quỵt tiền lương, bị trao đổi, chuyển nhượng giữa các công ty.
Đã có hàng chục ngàn lao động Việt Nam phải trốn ra ngoài sống bất hợp pháp, làm việc “chui”, bị cảnh sát và chính phủ sở tại trục xuất, bị phạt tiền hoặc xử tù.
Theo các số liệu từ nhà cầm quyền Việt Nam, hàng năm Việt Nam xuất khẩu trên 120 ngàn lao động đến hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, cao điểm là năm 2023, xuất khẩu 155 ngàn lao động, chưa kể hàng chục ngàn người ra đi bất hợp pháp, đến các quốc gia châu Âu và châu Mỹ.
Nhờ hàng chục tỷ đô la hàng năm từ nguồn lao động xuất khẩu gửi về, nhà cầm quyền cộng sản coi đây là một ngành kinh tế mũi nhọn, thu ngoại tệ để duy trì chế độ.
UBBV đã thường xuyên làm cho dư luận quốc tế thấy rõ việc xuất khẩu lao động của nhà cầm quyền Việt Nam thực chất là buôn nô lệ, với tài sản thế chấp buộc các nạn nhân phải làm việc cật lực để trả lãi tiền vay ngân hàng trong nước.
UBBV đã có mặt ở những nơi mà người lao động Việt Nam bị bóc lột và bị coi rẻ như Malaysia, nơi có nhiều công nhân xuất khẩu nhất Đông Nam Á, nơi mà năm 2007-2008 đã có hàng trăm công nhân bị chết vì tai nạn lao động, để giúp đỡ. UBBV đã gặp gỡ các giới chức Tổng Liên Đoàn Malaysia để can thiệp với giới chủ, hướng dẫn công nhân tham gia nghiệp đoàn Malaysia, thành lập nghiệp đoàn của mình để tự bảo vệ.
Để hướng dẫn cách xây dựng các cơ sở nghiệp đoàn, cách giúp đỡ công nhân phương pháp thương lượng với giới chủ, trao đổi kinh nghiệm của các Nghiệp đoàn có cùng hoàn cảnh, UBBV đã tổ chức nhiều khóa huấn luyện tại các nước Đông Nam Á cho anh chị em từ Việt Nam bí mật đến tham dự.

Cuối năm 2009, UBBV tổ chức đại hội lần thứ 2 tại Kuala Lumpur, thủ đô nước Malaysia nhằm tạo điều kiện gần gũi hơn với công nhân Việt Nam. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh thay mặt anh em trong nước tham dự hội nghị. Hội nghị được sự quan tâm của Tổng liên đoàn lao động Malaysia và các Nghiệp đoàn quốc tế.
Cuộc tranh đấu đòi quyền lợi bị giới chủ cướp đoạt những ngày tháng 1 năm 2010 của trên 10 ngàn công nhân công ty giày Mỹ Phong, Trà Vinh với sự hướng dẫn giúp đỡ trực tiếp của PTLDV đã mang lại thắng lợi, buộc giới chủ phải thỏa mãn phần lớn đòi hỏi của công nhân. Nhưng họ lại bị nhà cầm quyền Việt Nam lại thẳng tay đàn áp. Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh bị bắt và bị kết án nặng nề: 9 năm tù cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng; 7 năm tù cho Đoàn Huy Chương và Đỗ thị Minh Hạnh.
Tháng 6 năm 2012, UBBV tổ chức đại hội lần 3 tại Washington DC, nhằm tiếp cận gần hơn với chính giới Hoa Kỳ, các tổ chức NGO của Mỹ và các nghiệp đoàn Mỹ, kêu gọi dư luận tạo sức ép, buộc nhà cầm quyền Việt Nam phải trả tự do cho Hùng, Hạnh, và Chương – làm cho chính giới và các nghiệp đoàn Hoa Kỳ thấy rõ hơn Tổng Liên Đoan Lao Động do đảng Cộng sản lập ra chỉ là công cụ phục vụ cho đảng Cộng sản.

Các đại biểu tham dự Đại hội III UBBV tại Washington DC gồm có ông Trần Quốc Bửu, cựu Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công VNCH; ông Nguyễn Văn Tánh, cựu đại diện Tổng Liên Đoàn Lao Công VNCH tại Tổng Liên Đoàn lao Động Thế Giới – ITUC.


UBBV cũng đã nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ ban lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Thế Giới (International Trade Union Confederation – ITUC) tại Bỉ.

UBBV đã cố gắng cho ITUC và nhiều nghiệp đoàn thành viên thấy rằng, giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam cần có một tổ chức nghiệp đoàn đúng nghĩa, do công nhân tự lập ra, đại diện quyền lợi cho mình chứ không phải là nghiệp đoàn trá hình, làm vật trang sức cho Đảng Cộng sản như TLĐLĐVN.
Công Đoàn Độc Lập, UBBV và PTLĐV đã chính thức liên kết thành “Liên Đoàn lao Động Việt Tự Do” (Viết tắt là Lao Động Việt – LĐV) để tăng thêm sức mạnh, tăng cường sự hỗ trợ trong và ngoài nước.
Giữa tháng 1 năm 2014, LĐV đã tổ chức đại hội lần thứ 1 tại Bangkok, Thủ đô Thái Lan để tạo điều kiện cho anh chị em trong nước và vùng Đông Nam Á tham gia.
Sau Đại Hội, LĐV đã viết thư đến chính phủ các nước thành viên tham gia đàm phán Hiệp ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP, nêu rõ thực trạng của giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam, đề nghị nhà cầm quyền Việt Nam phải chấp nhận tính hợp pháp của LĐV.
LĐV phải được hoạt động công khai tại Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam có quyền thành lập các Công Đoàn Độc lập của mình. LĐV đề nghị đây là một điều kiện bắt buộc khi ký kết TPP. Nếu không, giai cấp công nhân và người lao động Việt Nam tiếp tục là những kẻ nô lệ ngay trên chính quê hương mình. Hàng hóa mà họ làm ra để xuất khẩu đến các nước TPP sẽ thấm đượm nước mắt, mồ hôi và cả máu của công nhân.

Tại Việt Nam, các thành viên LĐV, dù bị nhà cầm quyền cho công an theo dõi, một số trường hợp bị công an giả dạng côn đồ đánh đập dã man, vẫn thường xuyên bám trụ các công ty, xí nghiệp hướng dẫn công nhân tranh đấu dưới nhiều hình thức. Các cuộc đình công vẫn liên tiếp nổ ra, phạm vi ngày càng lớn, đặc biệt là khu vực phía nam.
Những ngày đầu tháng 4 năm 2015, cuộc đình công của hơn 90 ngàn công nhân công ty Poeu Yuen tai khu công nghiệp Bình Dương đã làm chấn động dư luận trong nước và thế giới.
Cuộc tranh đấu không hướng tới giới chủ mà hướng tới nhà cầm quyền, chống lại điều 60 luật bảo hiểm xã hội, điều khoản gây thiệt hại lớn cho công nhân, đã được quốc hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ năm 2016.
Hàng ngàn công an và lực lượng an ninh đã được điều tới nhằm uy hiếp công nhân. Nhưng sức mạnh của gần trăm ngàn người đã buộc nhà cầm quyền không dám đàn áp.
Cuộc đình công đã lan tỏa đến nhiều nơi khác trong cả nước đặc biệt là cuộc đình công của công nhân tỉnh Long An, kéo dài hơn 10 ngày.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đáng lẽ phải ủng hộ nguyện vọng chính đáng của công nhân, nhưng ngược lại, họ đe dọa công nhân. Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Đặng Ngọc Tùng còn buộc tội công nhân là bị ‘bọn phản động xúi giục’.
Sau một thời gian dùng sức mạnh đe dọa, nhà cầm quyền không ngăn cản được ý chí của người lao động, đành phải xuống nước điều đình với công nhân. Quốc Hội Cộng sản Việt Nam buộc phải sửa lại điều 60 luật BHXH.

LĐV cũng đã luôn tác động để các chính phủ, các đối tác kinh tế của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, để họ không thờ ơ trước cuộc sống tối tăm của công nhân và người lao động Việt Nam. LĐV luôn luôn tranh đấu để quyền thành lập “Công Đoàn Độc Lập” trở thành một điều kiện cứng rắn trên bàn đàm phán TPP.

Ngày 5 tháng 10 năm 2016, TPP kết thúc đàm phán ở Mỹ và chính thức ký kết ngày 4 tháng 02 năm 2016 tại Auckland, New Zeland.
Sau khi TPP được ký kết, đáng lẽ ra giai cấp công nhân và những người lao động Việt Nam phải biết được tường tận nội dung TPP, đặc biệt là điều 19 về quyền thành lập Nghiệp đoàn Độc lập, các phương tiện truyền thông do nhà nước quản lý phải chuyển tải đến người dân những thông tin đó. Nhưng ngược lại, hầu như tất cả các loại báo chí và phương tiện truyền thông nhà nước Cộng sản VN được lệnh im lặng trong vấn đề này.
Lao Động Việt đã mở một cuộc vận động đến với công nhân, chuyển đến công nhân các thông tin liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của công nhân, sau khi TPP được ký kết. Ngoài việc đến các công ty, xí nghiệp để giải thích, LĐV đã in ấn hàng chục ngàn tờ rơi, in lại nội dung phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về TPP, phân phát cho công nhân và người lao động.
Các hoạt động của LĐV đáng lẽ phải được nhà nước Việt Nam khuyến khích, hoan nghênh, nhưng ngược lại, họ bị nhà nước dùng mọi hình thức ngăn chặn và đàn áp thô bạo.
Năm 2016, khi công ty Formosa thải chất độc hại ra biển, làm ô nhiễm môi trường hàng trăm km biển miền Trung, Hoàng Đức Bình, phó chủ tịch PTLĐV đã cùng các thành viên khác vận động thành lập “Hiêp Hội Ngư dân Miền Trung” để người dân đoàn kết, đấu tranh bảo vệ môi trường, cùng với các tổ chức khác giúp đỡ người dân trong lúc khốn khó, tranh đấu buộc Formosa phải bồi thường thiệt hại. Nhà cầm quyền đã dùng lực lượng quân đội, công an hùng hậu đàn áp dã man người dân. Phó chủ tịch Hoàng Bình bị nhà cầm quyền bắt cóc và xử án 14 năm tù.

LĐV tranh đấu để cụm từ “Công Đoàn Độc Lập” trở thành nhóm từ được nhắc đến thường xuyên trên các phương tiện truyền thông và dư luận tại Việt Nam; mặc dù nhà nước Cộng sản luôn kiểm duyệt. TPP có định chế nghiêm ngặt, buộc nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tuân thủ khi thực hiện điều 19 về lao động. Tuy nhiên, sau khi trở thành tổng thống Mỹ năm 2017, Donald Trump đã hủy bỏ TPP. CPTPP được đàm phán lại gồm 11 nước thành viên, không có Mỹ.

Chính phủ các nước có quan hệ với Việt Nam thường coi trọng giá trị kinh tế nhưng không chú ý đúng mức đến quyền lợi của người lao động, không chú ý đến giá trị nhân quyền, đặc biệt là giới chủ nhân ngoại quốc. Giới công nhân Việt Nam trở thành vật hy sinh cho sự tham lam, làm giàu của quan chức cộng sản và giới tư bản nước ngoài.
Việt Nam là thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, nhưng trì hoãn, không ký công ước quan trọng nhất liên quan đến quyền lợi của người lao động là Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức. LĐV đã bí mật làm nhiều phóng sự điều tra về lao động tù, làm cho thế giới biết được có nhiều loại sản phẩm được nhập khẩu từ Việt Nam có thấm máu của tù nhân.
Hiệp ước tự do mậu dịch của Liên hiệp Âu châu (EU) và Việt Nam FTA đã kết thúc đàm phán vào tháng 12 năm 2015 và bắt đầu các thủ tục pháp lý để ký kết, nhưng EU đã khước từ việc đặt vấn đề về quyền của người lao động, về nhân quyền nói chung khi đàm phán về tự do mậu dịch. Vấn đề này đã bị phân ban nhân quyền của Quốc hội Âu châu phê phán mạnh mẽ trong phiên điều trần hôm 3-3-2016.
Ngày 30-6-2019, Việt Nam và EU chính thức ký kết EVFTA và IPA. Ngày 3003-202,0 Hội đồng Âu châu thông qua EVFTA. Ngày 8-6-2020 Quốc hội Cộng sản Việt Nam thông qua EVFTA và IPA. Cả hai hiệp định CPTTP và EVFTA đều yêu cầu phía Việt Nam phải tôn trọng quyền của người lao động, trong đó có quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập, nhưng không có điều khoản chế tài nghiêm ngặt như TPP.
Trong suốt 50 năm qua nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn vô trách nhiệm đối với cuộc sống và quyền lợi của người lao động Việt Nam. Những năm gần đây, do chính sách kinh tế quan liêu, nạn tham nhũng, cửa quyền đã khiến hàng ngàn doanh nghiệp tư nhân giải thể, đẩy hàng triệu công nhân vào cảnh thất nghiệp, phải tìm cách đi lao động xuất khẩu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều nhất là ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Bất chấp nguy hiểm, hàng chục ngàn người đã vượt biên trái phép vào các nước châu Âu, Canada, Mỹ, nhiều người bỏ mạng trên dường đi.
Quyền tự do nghiệp đoàn là quyền cơ bản của người lao động ở bất cứ quốc gia nào. Luật lao động quốc tế khẳng định, quyền tự do thành lập công đoàn độc lập là nguyên tắc cơ bản trong lao động. Nhưng ở Việt Nam, nhà cầm quyền cộng sản đã thẳng tay đàn áp, bắt bớ tất cả những người tranh đấu cho quyền thành lập công đoàn độc lập.
Hàng chục người tranh đấu cho quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập ở Việt Nam bị nhà cầm quyền tuyên án tổng cộng trên 100 năm tù.
Cuối năm 2023, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ban hành “Chỉ thị mật 24”. Chỉ thị này xác định việc thành lập các “Công đoàn Độc lập” là vấn đề an ninh quốc gia.
Cuối tháng 4 năm 2024, nhà cầm quyền Việt Nam bắt ông Nguyễn Văn Bình, vụ trưởng vụ pháp chế Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ngày 18 tháng 5 năm 2024, ông Vũ Minh Tiến, trưởng phòng chính sách, pháp luật của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, kiêm giám đốc Viện công nhân và Công đoàn đã bị bắt. Cả hai người bị kết tội làm lộ bí mật nhà nước. Ông Bình và ông Tiến là những người tích cực vận động nhà cầm quyền cộng sản phê chuẩn công ước 87 của Tổ chức Lao động Thế giới ILO, nỗ lực đưa công ước này trình quốc hội.
Đảng Cộng sản thường xuyên tuyên truyền rằng họ đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động, nhưng trên thực tế, kể từ khi họ cướp được chính quyền, giai cấp công nhân và người lao động là đối tượng chính để họ bóc lột và trấn áp.
Phải khẳng định rằng, suốt 50 năm qua, trên phạm vi cả nước, nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam coi giới công nhân và người lao động là đối tượng để thu ngân sách, để tăng trưởng kinh tế, kể cả lao động trong nước và lao động xuất khẩu. Nhà cầm quyền luôn luôn dùng mọi thủ đoạn, lừa dối các tổ chức quốc tế, bóc lột thậm tệ người lao động, dồn ép người lao động vào cảnh bần cùng, triệt tiêu mọi sự phản kháng của người lao động nhằm duy trì chế độ độc tài. Bằng mọi biện pháp, họ ngăn cấm giới công nhân và người dân lao động thành lập nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Chừng nào tại Việt Nam chưa có nghiệp đoàn độc lập thì giới công nhân và người lao động vẫn là đối tượng không được bảo vệ quyền lợi, vẫn nằm trong vòng kiềm tỏa của giới chủ nhân và nhà cầm quyền.
Nghiệp đoàn độc lập vẫn là mục tiêu tranh đấu của những người quan tâm đến quyền lợi chính đáng của giới công nhân và người dân lao động.
__________
Tham khảo:
1. Đánh tư sản miền Nam sau năm 1975: https://nghiencuulichsu.com/2015/07/14/danh-tu-san-o-mien-nam-sau-1975/
2. Hình ảnh người dân miền Nam bị dồn đi vùng “kinh tế mới”: https://www.hinhanhlichsu.org/2020/05/di-vung-kinh-te-moi-o-viet-nam-sau-nam-1975
3. Thời bao cấp, giai đoạn lịch sử đáng nhớ của Việt Nam: https://vieclam123.vn/thoi-bao-cap-b309.html
4. Nỗi ám ảnh hạt bo bo trong đêm dài đó kém: https://tuoitre.vn/noi-am-anh-bo-bo-trong-dem-dai-doi-kem-729467.htm
5. Hình ảnh cuộc sống người dân thời bao cấp: https://baonghean.vn/nhung-hinh-anh-kho-quen-thoi-bao-cap-10117834.html
6. Những hình ảnh quý giá của miền Bắc thời bao cấp: https://hinhanhvietnam.com/nhung-hinh-anh-quy-ve-mien-bac-thoi-ky-bao-cap
7. Tình hình xuất khẩu lao động giai đoạn 1980-1990: https://xaydung-vn.com/tinh-hinh-xuat-khau-lao-dong-giai-doan-1980-den-1990/
8. Xuất khẩu lao động, 40 năm giải bài toán việc làm: https://vnexpress.net/xuat-khau-lao-dong-40-nam-giai-bai-toan-viec-lam-4503039.html
9. Tổng quan xuất khẩu lao động Việt Nam: http://www.vhrc.vn/tong-quan-xuat-khau-lao-dong-viet-nam-gt-79.aspx
10. Luật đất đai 1993: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bat-dong-san/Luat-Dat-dai-1993-24-L-CTN-38481.aspx
11. Những phòng trọ công nhân “siêu rẻ”, “siêu nhỏ”: https://laodong.vn/photo/nhung-phong-tro-cong-nhan-sieu-re-sieu-nho-1070598.ldo
12. Hội nghị về quyền lao động Việt Nam tại Ba Lan: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/story/2006/10/061029_hoinghicongdoan
13. Hội nghị về quyền lao động Việt Nam tại Warszawa: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Warsaw_conference_on_Workers_Rights_in_Vietnam_VHung-20061029.htm
14. Nghiệp đoàn độc lập chính thức của công nhân VN được thành lập: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/UnionofFreedomFoundinVietnam_VHung-20061019.html
15. Luật sư Lê Thị Công Nhân bị chặn tại cửa máy bay, không cho xuất cảnh tham dự Hội nghị Warszawa: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/LawyerLeThiCongNhanNotAllowedGoToPoland_NAn-20061027.html
16. Đại Hội kỳ 2 Ủy Ban Bảo vệ Người lao động tại Kuala-Lumpur: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Second-international-conference-held-in-Kuala-Lumpur-by-the-Committee-to-Protect-Vietnamese-workers–12292009064716.html
17. Cuộc đình công của 90 ngàn công nhân công ty Pouyen: https://laodong.vn/archived/gan-90000-cong-nhan-pouyuen-dinh-cong-vi-khong-duoc-huong-bhxh-1-lan
18. Phiên tòa xử Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân: https://cand.com.vn/Xa-hoi/Phat-tu-Nguyen-Van-Dai-va-Le-Thi-Cong-Nhan
19. Phiên tòa xử Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương: https://cand.com.vn/Ho-so-Interpol/Linh-an-vi-pha-roi-ANTT-nham-chong-lai-chinh-quyen-nhan-dan-i299754/
20. Phiên tòa xử Hoàng Đức Bình 14 năm tù: https://cand.com.vn/Ban-tin-113/Xet-xu-so-tham-cong-khai-vu-an-hinh-su-doi-voi-2-bi-cao-Hoang-Duc-Binh-va-Nguyen-Nam-Phong-i464653/
21. Miền Trung biểu tình chống Formosa: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/08/160808_formosa_nghe_an_protest
22. Nạn nhân Formosa liên tục biểu tình đòi công lý: https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/protest-f-justice-w-be-continued-lh-04032017123918.html
23. Bắt vụ trưởng vụ pháp chế Nguyễn Văn Bình: https://tuoitre.vn/bat-vu-truong-vu-phap-che-bo-lao-dong-thuong-binh-va-xa-hoi-vi-lam-lo-bi-mat-nha-nuoc-20240509092959642.htm
24. Bắt ông Vũ Minh Tiến: https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/project-88-says-vietnam-arrests-second-official-supporting-rights-of-workers-05212024044957.html
Nguồn: Tiếng Dân