Vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc trên Biển Đông: Lợi không bằng hại

Các tàu sân bay USS Ronald Reagan (G), USS Theodore Roosevelt (71) và USS Nimitz thao diễn tại vùng Tây Thái Bình Dương, ngày 12/11/2017. Reuters/James Griffin/U.S. Navy


Mai Vân

Theo thông báo của Hạm Đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, hai nhóm tác chiến của tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN 71) và USS Nimitz (CVN 68) đã bắt đầu các bài tập huấn chung trên Biển Philippines kể từ hôm qua, 21/06/2020. Cùng ngày, trang web thông tin DVIDS của bộ Quốc Phòng Mỹ cũng công bố hình ảnh về hoạt động, cũng trên Biển Philippines, của hàng không mẫu hạm USS Ronald Reagan (CVN 76) cùng nhóm tác chiến đi theo.

Đối với giới quan sát, phải lần ngược về năm 2017 mới thấy sự hiện diện đồng thời của ba nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ trên cùng một vùng biển ở châu Á, cũng với ba chiếc Ronald Reagan, Theodore Roosevelt và Nimitz.

Việc huy động đồng thời ba nhóm tác chiến tàu sân bay là một động thái phô trương uy lực rõ nét, vì mỗi nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ đều bao gồm một tuần dương hạm và hai khu trục hạm hộ tống, tất cả đều có trang bị tên lửa dẫn đường. Mỗi hàng không mẫu hạm đều chở theo hơn sáu chục chiến đấu cơ hiện đại cùng một số loại phi cơ khác, một lực lượng máy bay hùng hậu hơn toàn bộ không lực của phần đông các nước châu Á.

Nếu vào năm 2017, ba nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ đã được phái đến châu Á để phô trương uy lực răn đe Bắc Triều Tiên, thì lần này đối tượng bị nhắm chính là Trung Quốc, đang ngày càng có thêm nhiều hành vi dùng sức mạnh để độc chiếm Biển Đông, mà bước tới đây có thể là việc thiết lập một vùng nhận dạng phòng không bên trên vùng biển Đông Nam Á.

Có lẽ chính là để Bắc Kinh hiểu rõ thông điệp răn đe mà lần này, các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ đã nhanh chóng đến tập trận ngay tại Biển Philippines, nơi được coi là cửa ngõ vào Biển Đông. Giới bình luận Trung Quốc đã không một chút nghi ngờ: Washington đã muốn cho Bắc Kinh thấy rõ là cho dù bị dịch Covid-19, Mỹ vẫn còn đủ “cơ bắp”.

Trong một bài phân tích ngày 18/06 vừa qua về tình hình Biển Đông, tuần báo Anh The Economist đã ghi nhận là dù các quan chức Mỹ không nêu đích danh Trung Quốc là đối tượng của hành động thị uy, nhưng rõ ràng họ không yên tâm về các hành vi gần đây của Bắc Kinh ở Biển Đông.

Vào ngày 03/04, một chiếc tàu Hải Cảnh Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá Việt Nam gần Hoàng Sa. Đến ngày 10/06, một tàu Việt Nam khác bị một tàu Trung Quốc đâm vào cũng ở khu vực này. Trong hai tháng Tư và Năm, Hải Cảnh Trung Quốc sách nhiễu tàu khoan dầu West Capella của Malaysia gần đảo Borneo, khiến Mỹ và Úc phải gởi tàu chiến đến nơi. Ở vùng Trường Sa, tàu dân quân biển Trung Quốc đội lốt tàu cá đã tràn ngập khu vực gần đảo Thị Tứ do Philippines kiểm soát nhưng bị Trung Quốc đòi chủ quyền.

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo đã lên tiếng tố cáo Trung Quốc lợi dụng lúc dịch Covid -19 hoành hành để có những “hành vi khiêu khích”.

Theo nhận định của The Economist, tranh chấp ở Biển Đông không phải là điều mới mẻ. Từ hàng chục năm nay, Trung Quốc và các nước láng giềng vẫn tranh chấp về các đảo, đá ở Biển Đông, và Bắc Kinh luôn thắng thế. Cho dù đã cam kết với Mỹ vào năm 2015 là sẽ không quân sự hóa khu vực, nhưng Trung Quốc vẫn xây dựng hải cảng, phi đạo, bunker ở Trường Sa và bố trí tên lửa trên các thực thể mà họ kiểm soát.

Gần đây, Trung Quốc còn có một quyết định mang tính biểu tượng mạnh hơn để nắm chặt thêm kiểm soát của họ: Thành lập hai đơn vị hành chánh bao trùm Trường Sa và Hoàng Sa, đặt dưới quyền kiểm soát của Tam Sa, cái gọi là “thành phố” mà Bắc Kinh thiết lập năm 2012 để quản lý vùng biển.

Về việc thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông, The Economist nhắc lại rằng đây ý đồ của giới lãnh đạo Trung Quốc từ một thập niên nay.

Trung Quốc đã thiết lập vùng nhận dạng phòng không đầu tiên vào năm 2013 ở Biển Hoa Đông, bao trùm cả quần đảo Điếu Ngư/Senkaku mà họ tranh chấp với Nhật Bản. Mỹ đã cấp tốc cho hai oanh tạc cơ bay ngang vùng này mà không hề xin phép, để chứng tỏ là Mỹ không quan tâm gì đến quyết định của Trung Quốc. Thế nhưng phần lớn các nước – kể cả Mỹ – đều thận trọng khuyên các hãng máy bay dân sự tuân theo các quy tắc mới để bảo đảm an toàn.

Mới đây, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post tiết lộ rằng giới lãnh đạo Trung Quốc đang chờ đợi “thời cơ thích hợp” để tuyên bố kế hoạch lập vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông. Những động thái vừa qua của Trung Quốc ở Biển Đông càng làm gia tăng mối lo ngại theo đó có lẽ Trung Quốc đã thấy rằng thời cơ đã đến.

Zack Cooper, chuyên gia viện nghiên cứu American Enterprise Institute giải thích là đối với Trung Quốc, vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông dễ kiểm soát hơn vùng trên Biển Hoa Đông.

Bắc Kinh có thể vừa sử dụng radar trên đảo Hải Nam hay dọc bờ biển Hoa Lục, vừa dùng những radar mới đặt ở Trường Sa và Hoàng Sa, đồng thời trám được mọi lỗ hổng trong màng lưới dò tìm bằng cách dùng đến máy bay giám sát hay chiến đấu cơ đã được triển khai trên các đảo, hoặc sử dụng các khu trục hạm trang bị radar.

Tóm lại, theo ông Cooper, Trung Quốc có thể theo dõi “phần lớn máy bay nước ngoài” tiến vào vùng nhận dạng phòng không.

Theo The Economist, máy bay quân sự Mỹ dĩ nhiên sẽ không chú ý đến những quy tắc mới của Trung Quốc như đã từng làm ở Biển Hoa Đông, thể nhưng vì sao lại phải bận tâm?

Đối với tuần báo Anh, lý do có lẽ là cho dù chỉ thành công một phần thì vùng nhận dạng phòng không vẫn rất có lợi cho Trung Quốc. Cho dù vùng này không cho Bắc Kinh chủ quyền trên không phận, nhưng Trung Quốc có thể sử dụng vùng này để chứng tỏ quyền lực.

Cho đến giờ chưa có bằng chứng về việc Trung Quốc đã sử dụng vùng nhận dạng phòng không họ hiện có để gây xáo trộn cho các đường bay dân sự, nhưng đó có thể là một công cụ dùng khi có khủng hoảng. Trung Quốc có thể viện lý do có vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông để tăng cường các chuyến bay tuần tra trong khu vực.

Tuy nhiên, đối với The Economist, việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông không phải là không có khó khăn.

Đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông vừa quá rộng lớn, vừa mơ hồ. Tấm bản đồ Đường 9 đoạn bao quanh cả Biển Đông, nhưng Bắc Kinh lại không đưa ra tọa độ cũng như nói rõ ý nghĩa của đường này.

Ở biển Hoa Đông, vùng nhận dạng của Trung Quốc phần lớn đi theo vùng thềm lục địa đang có tranh chấp của Trung Quốc, còn ở Biển Đông, theo chuyên gia Alessio Patalano trường đại học King’s College ở Luân Đôn, nếu vùng này chỉ được vẽ ra xung quanh các thực thể rải rác mà Trung Quốc nắm giữ, thì điều đó có thể đánh một đòn “chí tử” vào bất kỳ yêu sách nào của Trung Quốc đối với các khu vực nằm bên trong đường 9 đoạn.

Nhưng nếu ranh giới vùng nhận dạng phòng không đi theo đường lưỡi bò, điều đó sẽ gây chấn động. Từ nhiều năm nay, 10 thành viên ASEAN đã bị chia rẽ về cách đối phó với Trung Quốc. Nhiều thành viên muốn hòa dịu với Trung Quốc, trong khi một số ít lại muốn có thái độ cứng rắn. Một hội nghị thượng đỉnh trực tuyến của ASEAN sẽ mở ra vào cuối tháng này. Theo chuyên gia Collin Koh thuộc Trường Nghiên Cứu Quốc Tế S. Rajaratnam ở Singapore, việc Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không có thể làm thay đổi tương quan lực lượng, và các nỗ lực của khối để đàm phán một Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông với Trung Quốc có thể là nạn nhân.

Việc Mỹ quyết định cử chiến hạm, drones và oanh tạc cơ đi tuần tra gần khu vực mà tàu khoan West Capella của Malaysia bị bao vây (cho đến khi con tàu rời khỏi khu vực vào tháng 5) và việc triển khai ba tàu sân bay hiện nay là tín hiệu hỗ trợ cho các đối thủ của Trung Quốc.

Trong một lá thư gửi đến Liên Hiệp Quốc ngày 01/06, Mỹ đã chỉ trích các “yêu sách hàng hải quá đáng” của Trung Quốc. Mỹ cũng càng lúc càng triển khai thêm tàu chiến để thách thức những yêu sách đó bằng cách đi qua các vùng biển mà Trung Quốc cho là của họ. Chuyến tuần tra bảo vệ quyền tự do hàng hải gần đây nhất diễn ra ngày 28/05, lần thứ năm trong năm nay. Đối với The Economist, rõ ràng là ngay cả khi không có ADIZ, cuộc đối đầu Mỹ-Trung vẫn sẽ gia tăng.

Related posts